Chương 11: Chính sách kinh tế mới và Chiến tranh Thế giới thứ hai
“Chúng ta phải là kho vũ khí vĩ đại của nền dân chủ"
Tổng thống Franklin D. Roosevelt,1941
ROOSEVELT VÀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI
Vào năm 1933, vị tổng thống mới Franklin D. Roosevelt đã mang tới một bầu không khí tự tin và niềm lạc quan, và điều đó đã mau chóng tập hợp được dân chúng đến với tấm biểu ngữ chương trình của ông mang tên Chính sách kinh tế mới (New Deal). Điều duy nhất khiến chúng ta sợ hãi chính là bản thân nỗi khiếp sợ - vị tổng thống đã tuyên bố như vậy trong diễn văn nhậm chức của mình trước dân tộc.
Xét trên khía cạnh nào đó thì Chính sách kinh tế mới chỉ đơn thuần đưa ra những cải cách xã hội và kinh tế vốn đã rất quen thuộc đối với người châu Âu từ hơn một thế hệ nay. Hơn nữa, Chính sách kinh tế mới là cao trào của một xu hướng dài hạn nhằm tiến tới bãi bỏ chủ nghĩa tư bản không can thiệp, trở lại việc kiểm soát đường sắt vào những năm 1880, và đưa ra hàng loạt cải cách luật pháp bang và liên bang đã được khởi xướng trong kỷ nguyên tiến bộ thời các Tổng thống Theodore Roosevelt và Woodrow Wilson.
Tuy nhiên, điều thực sự mới mẻ trong Chính sách kinh tế mới là nó đã nhanh chóng đạt được những thành tựu mà trước đó phải mất nhiều thế hệ mới có được. Rất nhiều chương trình cải cách trong số này đã được khởi thảo một cách vội vã và được quản lý lỏng lẻo; một số khác thì lại mâu thuẫn với những mô hình cải cách còn lại. Hơn nữa, chính sách này chưa bao giờ thành công trong việc đem lại sự thịnh vượng. Tuy vậy, những hành động trong Chính sách kinh tế mới đã giúp đỡ hàng triệu người Mỹ, xây dựng nền tảng cho một liên minh chính trị hùng mạnh, và khiến mỗi công dân Mỹ lại thực sự quan tâm đến chính phủ.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI LẦN THỨ NHẤT
Ngân hàng và Tài chính
Khi Roosevelt tuyên thệ nhậm chức tổng thống, hệ thống ngân hàng và tài chính của Mỹ đang trong tình trạng tê liệt. Đầu tiên, các ngân hàng quốc gia nhanh chóng bị đóng cửa, và sau đó, chỉ được hoạt động trở lại khi chúng có khả năng chi trả. Chính quyền đã thực thi chính sách lạm phát tiền tệ vừa phải để tăng giá cả của hàng hóa và giúp cho các gánh nặng nợ nần nhẹ nhõm phần nào. Các cơ quan mới của chính phủ đã cấp những khoản tín dụng hào phóng cho nông nghiệp và công nghiệp. Công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) đã bảo hiểm tới 5000 đô-la cho các khoản tiền tiết tiết kiệm gửi ngân hàng. Các điều luật Liên bang cũng được áp dụng cho hoạt động bán chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán.
Thất nghiệp
Tổng thống Roosevelt đã phải đối mặt với một tỉ lệ thất nghiệp cao chưa từng có trong lịch sử. Vào thời điểm ông nhậm chức, có khoảng 13 triệu người Mỹ - chiếm một phần tư lực lượng lao động - không có việc làm. Những hàng người chờ đợi được phân phát bánh mỳ là cảnh tượng thường thấy tại hầu hết các thành phố. Hàng trăm nghìn người lang thang khắp đất nước để tìm kiếm thức ăn, việc làm và nơi trú ngụ. "Người anh em ơi, bạn có mười xu không?” là đoạn điệp khúc trong một bài hát thịnh hành thời đó.
Bước đi đầu tiên nhằm giải quyết nạn thất nghiệp là hình thành Đội Bảo tồn Dân sự (CCC), một chương trình trợ giúp thanh niên từ 18 đến 25 tuổi. CCC tập hợp thanh niên không có việc làm thành những trại lao động do quân đội quản lý. Trong thập niên đó, đã có khoảng hai triệu thanh niên đã tham gia chương trình này. Họ hoạt động trong nhiều dự án bảo tồn: trồng cây chống xói mòn, bảo vệ các khu rừng quốc gia, loại bỏ ô nhiễm các dòng suối, xây dựng các khu bảo tồn cá, thú săn và chim, bảo vệ các vỉa than, mỏ dầu, đá phiến dẹt, mỏ khí đốt, mỏ muối natri và mỏ khí heli.
Cơ quan Quản lý các công trình công cộng (PWA) cung cấp việc làm cho những công nhân có tay nghề cao trong ngành xây dựng, chủ yếu làm việc trong các dự án lớn hoặc các dự án có quy mô vừa. Các công trình nổi tiếng trong giai đoạn này là đập nước Bonneville, đập Lớn Coulee tại miền Đông Bắc Thái Bình Dương, hệ thống cống ở Chicago, cầu Triborough ở thành phố New York, và hai tàu sân bay (Yorktown và Enterprise) cho Hải quân Mỹ.
Cơ quan Tennessee Valley (TVA), vừa là một chương trình tạo công ăn việc làm, vừa là một dự án quy hoạch các công trình công cộng, đã phát triển vùng thung lũng nghèo của sông Tennessee bằng cách xây dựng một loạt các đập nước nhằm kiểm soát lũ lụt và làm thủy điện. Bằng việc cung cấp điện với giá rẻ cho toàn bộ vùng Tennessee, cơ quan này đã thúc đẩy sự tăng trưởng nhất định về kinh tế, nhưng lại khiến các công ty điện lực tư nhân ghen ghét và thù địch. Các nhà kinh tế xã hội mới ca ngợi rằng đây là một ví dụ tiêu biểu về dân chủ cơ sở.
Trong suốt hơn 2 năm hoạt động từ 1933 đến 1935, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang (FERA) đã trực tiếp phân phát cứu trợ, chủ yếu dưới hình thức trả tiền trực tiếp cho hàng trăm nghìn người. Đôi khi, tổ chức này còn trợ cấp lương cho các giáo viên và nhân viên trong các cơ quan hành chính ở địa phương. Tổ chức này cũng đã triển khai nhiều dự án công cộng quy mô nhỏ cung cấp việc làm, cũng giống như Cơ quan Lao động Dân sự (CWA) từ cuối năm 1933 đến mùa xuân năm 1934. Đây bị chỉ trích là những việc làm giá trị, những công việc này có đủ loại, từ việc đào hào tới sửa chữa đường cao tốc và dạy học. Roosevelt và các quan chức nòng cốt của ông trong chính phủ đã lo lắng về các khoản chi phí dành cho những dự án cung cấp việc làm này, nhưng ông vẫn tiếp tục ủng hộ các chương trình chống nạn thất nghiệp, dựa trên nguyên tắc tạo ra công ăn việc làm chứ không phải là trợ cấp phúc lợi xã hội.
Nông nghiệp
Vào mùa xuân năm 1933, khu vực kinh tế nông nghiệp đang trong tình trạng suy sụp. Điều đó khiến những người khởi xướng Chính sách kinh tế mới có cơ sở để thử nghiệm niềm tin của họ rằng việc điều tiết nhiều hơn sẽ giải quyết được nhiều vấn đề của đất nước. Năm 1933, Quốc hội đã thông qua Luật Điều chỉnh Nông nghiệp (AAA) nhằm trợ giúp kinh tế cho nông dân. AAA đề xuất tăng giá nông sản bằng cách trả cho nông dân một khoản trợ cấp đền bù cho phần sản lượng tự nguyện cắt giảm. Nguồn tiền cho những khoản trợ cấp này có được do số thu từ thuế đánh vào những ngành công nghiệp chế biến nông sản. Tuy nhiên, cho đến khi điều luật này chính thức trở thành luật, thì vụ gieo trồng đã diễn ra rồi, và AAA buộc phải trả cho nông dân một khoản tiền trợ cấp để họ phá bỏ các mảnh đất đã được gieo trồng. Việc cắt giảm sản lượng và trợ cấp nông nghiệp thông qua Công ty Tín dụng Nông sản - là công ty thu mua nông sản để cất trữ - khiến cho sản lượng trên thị trường giảm xuống và giá nông sản tăng lên.
Từ năm 1932 đến năm 1935, thu nhập của nông dân tăng hơn 50% nhưng chỉ phần nào là nhờ vào các chương trình liên bang mà thôi. Trong những năm đó, khi chủ đất được khuyến khích không dùng đất vào trồng trọt, thải hồi những người làm thuê và những người lĩnh canh, thì một trận hạn hán khắc nghiệt đã ập xuống các bang vùng Plains. Gió mạnh và những cơn bão cát đã tàn phá khắp vùng khiến miền này nổi danh là xứ bụi trong suốt những năm 1930. Mùa màng bị tàn phá và các nông trại bị phá hủy.
Cho đến năm 1940, khoảng 2, 5 triệu người đã rời khỏi các bang vùng Plains, tạo thành dòng người di cư lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trong số đó, khoảng 200.000 người đã đến California. Những người di cư không chỉ gồm có nông dân mà còn bao gồm cả lao động chuyên môn, người bán lẻ và nhiều lớp người khác mà sinh kế của họ gắn với sự thăng trầm của các cộng đồng nông nghiệp. Nhiều người trong số họ cuối cùng đã phải tranh nhau tìm kiếm những công việc mang tính thời vụ như thu hái nông sản với đồng lương cực kỳ rẻ mạt.
Chính phủ đã ra tay cứu trợ bằng cách thành lập Cơ quan Bảo toàn Đất đai năm 1935. Những tập quán canh tác làm tàn phá đất đai đã làm cho ảnh hưởng của hạn hán càng trầm trọng thêm. Cơ quan này đã hướng dẫn nông dân các biện pháp làm hạn chế xói mòn. Ngoài ra, gần 30.000 km cây trồng đã được trồng lên để làm giảm sức mạnh của gió.
Tuy AAA phần nhiều là thành công, nhưng nó vẫn bị bãi bỏ vào năm 1936, khi các khoản thuế đánh vào các công ty chế biến thực phẩm bị Tòa án Tối cao cho là không hợp hiến. Quốc hội đã nhanh chóng thông qua một điều luật hỗ trợ nông dân, cho phép chính phủ trợ cấp cho những nông dân chấp nhận bỏ đất không gieo trồng nhằm mục đích bảo toàn đất đai. Năm 1938, với đa số thành viên ủng hộ Chính sách kinh tế mới tại Tòa án Tối cao, Quốc hội đã phục hồi điều luật AAA.
Cho tới năm 1940, gần sáu triệu nông dân đã nhận được trợ cấp liên bang. Các chương trình Chính sách kinh tế mới đã cấp các khoản vay cho những vụ gieo trồng tăng thêm, cung cấp bảo hiểm lúa mì và hệ thống cất trữ theo kế hoạch, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp lương thực ổn định. Cuối cùng, chính sách ổn định kinh tế cho nông dân cũng đã được hoàn tất, mặc dù chính phủ đã phải giám sát vô cùng chặt chẽ và bỏ ra những khoản chi phí khổng lồ.
Công nghiệp và lao động
Cơ quan Phục hồi Quốc gia (NRA) được thành lập năm 1933 cùng với Đạo luật Phục hồi Công nghiệp Quốc gia (NIRA) đã chấm dứt cạnh tranh gay gắt bằng việc đưa ra các bộ luật về cạnh tranh công bằng nhằm tạo nhiều việc làm hơn và do đó sẽ làm tăng sức mua. Tuy lúc đầu, NRA rất được hoan nghênh, nhưng nó đã sớm bị phàn nàn vì đã điều tiết quá mức và khiến cho việc phục hồi công nghiệp không được hoàn thành. Cơ quan này đã bị tuyên bố là không hợp hiến vào năm 1935.
NIRA đã đảm bảo cho lao động quyền được thương lượng tập thể thông qua các tổ chức công đoàn đại diện cho tầng lớp công nhân. Tuy nhiên, NRA đã không vượt qua được sự phản đối mạnh mẽ của giới doanh nghiệp đối với chủ nghĩa nghiệp đoàn độc lập. Sau khi cơ quan này giải thể vào năm 1935, Quốc hội đã thông qua Luật Quan hệ Lao động Quốc gia. Luật này đã khẳng định lại sự bảo đảm đó và cấm giới chủ lao động can thiệp vào hoạt động của Công đoàn. Quốc hội cũng lập ra Ban Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRB) để giám sát các cuộc thương lượng tập thể, điều hành các cuộc bầu cử và bảo đảm cho công nhân quyền lựa chọn tổ chức đại diện cho họ trong việc thương lượng với giới chủ.
Sự tiến bộ lớn lao đạt được trong tổ chức lao động đã mang lại cho người lao động ý thức ngày càng tăng về những quyền lợi chung, và sức mạnh của các tầng lớp lao động đã tăng lên không chỉ trong công nghiệp, mà cả về mặt chính trị. Đảng Dân chủ của Roosevelt đã được lợi rất nhiều từ những tiến bộ này.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI LẦN THỨ HAI
Trong những năm đầu thực thi, mặc dù Chính sách kinh tế mới đã thực hiện hàng loạt các sáng kiến lập pháp và đã làm sản lượng và giá cả tăng lên đáng kể, song nó vẫn không chấm dứt được thời kỳ suy thoái kinh tế. Khi nỗi lo sợ về cuộc khủng hoảng đã dịu đi, thì những nhu cầu mới lại xuất hiện. Các doanh nhân tiếc nuối vì chính sách không can thiệp không còn tồn tại nữa và bất bình trước những quy định của NIRA. Những cuộc khẩu chiến ầm ĩ cũng xuất hiện từ phía các phe phái chính trị cánh tả và cánh hữu, do những kẻ mơ mộng, những kẻ âm mưu và các chính trị gia mới nổi mang theo những phương thuốc phục hồi kinh tế thu hút sự chú ý của đông đảo dân chúng. Tiến sỹ Francis E. Townsend đề xuất các khoản lương hưu hậu hĩnh cho người già. Cha Coughlin, một vị linh mục từng phát biểu trên đài phát thanh, kêu gọi các chính sách chống lạm phát và chỉ trích các chủ nhà băng quốc tế trong những bài diễn văn được tung ra tới tấp của ông, mang tư tưởng bài xích Do Thái và ả Rập. ấn tượng nhất là Huey P. Long, Thượng nghị sỹ bang Lousiana, một diễn giả nổi tiếng về tài hùng biện và sự thẳng thắn luôn ủng hộ cho những người bị thiệt thòi yếu thế, đã vận động cho chính sách tái phân phối thu nhập (Nếu không bị ám sát vào tháng 9/1936 thì Huey P. Long rất có thể đã là một thách thức đối với chiếc ghế tổng thống của Franklin Roosevelt vào cuộc bầu cử năm 1936).
Trước những áp lực này, Tổng thống Roosevelt đã đưa ra một loạt những biện pháp mới về kinh tế và xã hội. Nổi bật nhất trong số đó là những biện pháp đấu tranh chống đói nghèo, mang lại việc làm cho những lao động đang thất nghiệp và xây dựng một mạng lưới an sinh xã hội.
Cơ quan Xúc tiến Việc làm (WPA), một cơ quan hỗ trợ trọng yếu của Chính sách kinh tế mới lần thứ hai, là tổ chức cung cấp việc làm lớn nhất thời kỳ đó. Cơ quan này đã triển khai các dự án quy mô nhỏ trên khắp đất nước, xây dựng nhà cửa, đường sá, sân bay và trường học. Các diễn viên, họa sỹ, nhạc sỹ và nhà văn được làm việc cho các Dự án Nhà hát Liên bang, Dự án Nghệ thuật Liên bang và Dự án Nhà văn Liên bang. Ngoài ra, Cơ quan Thanh niên Quốc gia cũng đã cung cấp việc làm bán thời gian cho sinh viên, thiết kế các chương trình đào tạo và trợ cấp cho những thanh niên chưa có việc làm. WPA tính toán được khoảng ba triệu người thất nghiệp trong thời điểm đó; và cho đến khi bị bãi bỏ năm 1943 thì cơ quan này đã giúp đỡ được tổng cộng chín triệu người.
Theo Tổng thống Roosevelt thì nền tảng của Chính sách kinh tế mới là Đạo luật Bảo hiểm Xã hội năm 1935. Bảo hiểm Xã hội đã tạo ra một hệ thống phúc lợi do nhà nước quản lý, nhằm trợ cấp cho người tàn tật, người nghèo và người thất nghiệp dựa trên các khoản đóng góp của tiểu bang và liên bang. Nó cũng tạo ra một hệ thống bảo hiểm hưu trí quốc gia, rút tiền từ một quỹ tín thác do chủ lao động và người lao động tham gia đóng góp. Nhiều quốc gia công nghiệp khác cũng đã từng ban hành những chương trình như vậy, nhưng những lời kêu gọi cho sáng kiến này ở Hoa Kỳ trước đó bị bỏ qua. Ngày nay, hệ thống bảo hiểm xã hội là chương trình quốc nội lớn nhất do Chính phủ Mỹ quản lý.
Thêm vào đó, Roosevelt đã cho ra đời thêm các điều luật khác là Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia; Đạo luật Thuế thu nhập - nhằm tăng thuế thu nhập của người giàu; Đạo luật về các Công ty công ích - nhằm thống nhất các công ty điện lực thành các tập đoàn lớn; Đạo luật Ngân hàng - mở rộng quyền lực của Cục Dự trữ Liên bang đối với các ngân hàng tư nhân. Một động thái quan trọng khác là việc thành lập Cơ quan Điện khí hóa Nông thôn cung cấp điện cho các trang trại trên khắp đất nước.
MỘT LIÊN MINH MỚI
Vào cuộc bầu cử năm 1936, Roosevelt đã giành chiến thắng quyết định trước đối thủ Đảng Cộng hòa Alf Landon, thống đốc bang Kansas. Roosevelt đã nổi tiếng nhờ vào phẩm chất cá nhân và nhờ các cải cách kinh tế. Ông đã giành được sự ủng hộ của hơn 60% cử tri và thắng cử ở tất cả các bang, ngoại trừ hai bang là Maine và Vermont. Một khối liên minh mới với Đảng Dân chủ đã được thành lập, bao gồm các tầng lớp lao động, phần lớn nông dân, các nhóm chủng tộc đô thị người Mỹ gốc Phi và Đảng Dân chủ truyền thống miền Nam. Đảng Cộng hòa đã nhận được sự ủng hộ của giới doanh nhân và những người thuộc tầng lớp trung lưu ở các thành phố nhỏ và các khu ngoại ô. Mặc dù có những biến động và thay đổi, nhưng khối liên minh chính trị này đã tồn tại nguyên vẹn trong suốt nhiều thập niên.
Nhiệm kỳ thứ hai của Roosevelt là thời gian để củng cố liên minh đoàn kết. Ông đã mắc phải hai sai lầm chính trị nghiêm trọng: chương trình mở rộng Tòa án Tối cao (chương trình này đã nhận được những lời cố vấn sai lầm và đã thất bại) và nỗ lực nhưng không có kết quả trong việc loại khỏi Đảng Dân chủ những người bảo thủ càng ngày càng cứng đầu ở miền Nam. Hơn nữa, khi ông cắt giảm những chi tiêu đắt đỏ của chính phủ, thì nền kinh tế đã suy sụp. Các sự kiện này đã làm tăng thêm khối liên minh bảo thủ trong Quốc hội, một liên minh không mặn mà với các sáng kiến cải cách.
Từ năm 1932 đến năm 1938, công chúng đã tranh luận sôi nổi về ý nghĩa của các Chính sách kinh tế mới đối với đời sống chính trị và kinh tế của đất nước. Hiển nhiên là người Mỹ muốn chính phủ nhận trách nhiệm lớn hơn đối với việc tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, tuy họ có thể không thích thú gì một chính phủ cồng kềnh. Chính sách kinh tế mới đã đặt nền móng cho một nhà nước phúc lợi hiện đại ở nước Mỹ. Roosevelt - có thể được coi là một trong những vị tổng thống Mỹ tiêu biểu nhất trong thế kỷ XX - đã tạo ra một chuẩn mực mới về sự lãnh đạo đất nước.
Không có một vị tổng thống nào, trước đó và sau này, lại có khả năng sử dụng đài phát thanh một cách hữu hiệu như Roosevelt. Trong bài phát biểu trên đài phát thanh năm 1938, Roosevelt đã tuyên bố "Nền dân chủ đã biến mất ở một số dân tộc lớn khác, không phải vì nhân dân họ thù ghét nền dân chủ mà vì họ trở nên mệt mỏi, chán nản trước nạn thất nghiệp và sự bất an, vì họ phải thấy con cái họ bị đói còn họ thì bất lực trước sự bối rối và sự yếu kém của chính phủ do thiếu khả năng lãnh đạo". Ông kết luận rằng nhân dân Mỹ mong muốn bảo vệ quyền tự do bằng bất kỳ giá nào và hiểu rõ rằng vấn đề quan trọng nhất trong sự đảm bảo ấy là đảm bảo an ninh kinh tế.
CHIẾN TRANH VÀ NỀN TRUNG LẬP KHÔNG DẾ DÀNG
Trước khi nhiệm kỳ thứ hai của Roosevelt được triển khai tốt đẹp thì chương trình quốc nội của ông đã bị lu mờ bởi một mối hiểm họa mới: những kế hoạch bành trướng của các chế độ chuyên chế ở Nhật Bản, Italia và Đức. Vào năm 1931, Nhật Bản đã xâm chiếm Mãn Châu và tiêu diệt quân kháng chiến Trung Hoa và lập ra một nhà nước bù nhìn ở Manchukuo. Italia, dưới thời Benito Mussolini, đã mở rộng đường biên giới của mình tại Libi, và vào năm 1935, đã tấn công Ethiopia. Nước Đức, dưới thời Đức Quốc xã của Adolf Hitler, đã quân sự hóa nền kinh tế và tái chiếm vùng Rhineland (vùng phi quân sự theo Hiệp ước Versailles) năm 1936. Năm 1938, Hitler đã sáp nhập nước áo vào nước Đức, sau đó, đánh chiếm vùng Reich thuộc Đức và yêu cầu tách vùng Sudetenland ra khỏi Tiệp Khắc. Những động thái này khiến cuộc chiến tranh có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào ở châu Âu.
Do tan vỡ ảo tưởng vì đã bị thất bại trong cuộc đấu tranh vì nền dân chủ trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, Hoa Kỳ đã tuyên bố trong bất kỳ tình huống nào cũng không giúp đỡ bất kỳ quốc gia nào dính líu đến cuộc xung đột. Đạo luật Trung lập được ban hành dần dần theo từng phần từ năm 1935 đến năm 1937, trong đó, cấm buôn bán hay cung cấp vũ khí cho các quốc gia tham chiến, yêu cầu phải trả tiền mặt cho tất cả các hàng hóa khác và cấm các tàu buôn treo cờ Mỹ chuyên chở các hàng hóa này. Mục đích là ngăn ngừa mọi sự can dự của nước Mỹ vào một cuộc chiến ở nước ngoài bằng bất cứ giá nào.
Với cuộc tấn công của quân Đức Quốc xã vào Ba Lan năm 1939 và sự bùng nổ Chiến tranh Thế giới Thứ hai, tinh thần chủ nghĩa biệt lập đã tăng lên, cho dù người Mỹ rõ ràng ủng hộ những nước là nạn nhân của các cuộc xâm lược do Hitler tiến hành và ủng hộ Liên minh Dân chủ Anh và Pháp. Tuy nhiên, Roosevelt chỉ có thể chờ đợi cho đến khi các sự kiện xảy ra khiến cho dân chúng Mỹ phải thay đổi quan điểm về sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến.
Sau sự thất thủ của nước Pháp và Đức Quốc xã khi bắt đầu không kích vào nước Anh vào giữa năm 1940, cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ các nước Đồng minh với những người thuộc phái biệt lập chống chiến tranh đã nổ ra tại Mỹ. Roosevelt đã thuyết phục công luận đồng ý cho Mỹ can thiệp vào cuộc chiến. Mỹ đã liên kết với Canada trong ủy ban Quốc phòng Tương hỗ và liên minh với các nước Cộng hòa ở châu Mỹ La-tinh để xây dựng tuyến phòng thủ chung với các nước phía Tây bán cầu.
Phải đối mặt với cuộc khủng hoảng đang ngày càng lên cao, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua các khoản chi lớn cho việc trang bị vũ khí hiện đại và vào tháng 9/1940, Quốc hội đã thông qua Sắc luật cưỡng bức tòng quân thời bình đầu tiên của nước Mỹ. Trong tháng này, Roosevelt cũng đã ký kết một hiệp định đầy táo bạo với Thủ tướng Anh Winston Churchill. Nước Mỹ đã tặng cho Hải quân Anh 50 tàu khu trục không dùng đến để đổi lấy việc quân Anh đặt các căn cứ không quân và hải quân tại Newfoundland và Bắc Đại Tây Dương.
Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1940 đã minh chứng rằng những người ủng hộ chủ nghĩa biệt lập chỉ là thiểu số. Wendell Wilkie, đối thủ thuộc Đảng Cộng hòa của Roosevelt đã học được nhiều điều từ quyết định can thiệp hay không can thiệp của Mỹ vào cuộc chiến tranh thế giới. Cuối cùng, cuộc bầu cử tháng 10 đã đem lại phần lớn phiếu bầu cho Roosevelt, khiến ông trở thành một chính trị gia đầu tiên và cũng là cuối cùng trong lịch sử nước Mỹ được bầu nhiệm kỳ thứ ba.
Vào đầu năm 1941, Roosevelt đã được Quốc hội đồng ý thông qua Chương trình cho vay - cho thuê, cho phép Roosevelt chuyển giao vũ khí và thiết bị chiến tranh cho bất kỳ quốc gia nào (đặc biệt là Anh, Liên Xô và Trung Quốc) được đánh giá là quan trọng sống còn đối với sự phòng thủ của nước Mỹ. Tổng số toàn bộ khoản trợ giúp cho vay - cho thuê này, tính đến cuối cuộc chiến ước tính là hơn 50 tỉ đô-la.
Sự kiện đáng ghi nhớ nhất là cuộc gặp gỡ tháng 8 giữa Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill tại bờ biển Newfoundland. Hai nhà lãnh đạo đã ký kết Tuyên bố chung về tương trợ chiến tranh, được họ gọi là Hiến chương Đại Tây Dương. Hiến chương này gần giống với Tuyên bố 14 điểm của cố Tổng thống Woodrow Wilson, nhằm vào các mục tiêu sau: không mở rộng và thay đổi lãnh thổ nếu không được sự đồng ý của dân chúng, quyền tự quyết của các dân tộc trong việc lựa chọn hình thức cai trị, cải tổ chính phủ, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, các dân tộc không có chiến tranh, không phải lo sợ, và được tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do trên biển, và không sử dụng quân đội làm công cụ cho các chính sách quốc tế.
Như vậy, giờ đây, nước Mỹ chỉ còn là một quốc gia trung lập trên danh nghĩa mà thôi.
NHẬT BẢN, TRÂN CHÂU CẢNG VÀ CHIẾN TRANH
Trong khi phần lớn người Mỹ đang lo lắng theo dõi diễn biến cuộc chiến ở châu Âu, thì sự căng thẳng lại leo thang ở châu Á. Lợi dụng cơ hội tăng cường vị trí chiến lược của mình, nước Nhật đã táo tợn tuyên bố về một trật tự mới, theo đó, nước Nhật sẽ chiếm vị thế bá chủ ở khu vực Thái Bình Dương. Trong khi giao chiến chống lại Đức Quốc xã, nước Anh đã không thể kháng cự lại và buộc phải rút lui khỏi Thượng Hải, rồi tạm thời ngừng trợ giúp cho Trung Hoa thông qua con đường từ Miến Điện. Vào mùa hè năm 1940, Nhật Bản đã được Chính phủ Vichy đang suy yếu của nước Pháp cho phép được sử dụng các sân bay ở Bắc Đông Dương (Bắc Việt Nam). Đến tháng 9, người Nhật đã chính thức liên minh với trục Rome - Berlin. Nước Mỹ đã phản đối bằng cách cấm vận xuất khẩu phôi thép sang Nhật Bản.
Tháng 7/1941, quân Nhật chiếm Nam Đông Dương (miền Nam Việt Nam), báo hiệu ý định của Nhật Bản muốn hướng về phía nam để nhòm ngó các mỏ dầu, đồn điền cao su, các mỏ thiếc của Malaysia thuộc Anh và vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan. Đáp lại, nước Mỹ đã phong tỏa tài sản của Nhật Bản và tiến hành cấm vận hàng hóa quan trọng bậc nhất đối với nước Nhật là dầu mỏ.
Tướng Hideki Tojo đã trở thành Thủ tướng Nhật Bản vào tháng 10/1941. Vào giữa tháng 11, ông đã cử đặc phái viên tới Mỹ để gặp Ngoại trưởng Cordell Hull. Trong số những vấn đề được thảo luận, Nhật yêu cầu Mỹ giải phóng các tài sản của Nhật và ngừng mở rộng lực lượng hải quân Mỹ trên Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Hull đáp lại đòi hỏi này bằng việc yêu cầu Nhật ngưng tất cả các cuộc chinh phục của mình. Nhật Bản đã thẳng thừng bác bỏ yêu cầu trên vào ngày 1/12, khiến các cuộc đối thoại rơi vào bế tắc.
Sáng ngày 7/12, nhiều máy bay xuất phát từ tàu sân bay Nhật đã triển khai một cuộc tấn công bất ngờ hủy diệt toàn bộ hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu Cảng, Hawaii.
21 tàu chiến Mỹ đã bị hủy diệt hoàn toàn hoặc bị tàn phá nặng nề, 323 máy bay Mỹ bị phá hủy; 2388 lính, thủy thủ và công dân Mỹ đã thiệt mạng. Tuy nhiên, các tàu sân bay Mỹ có vai trò quyết định trong cuộc chiến hải quân sau này trên Thái Bình Dương lại đang ở ngoài khơi và không buông neo ở Trân Châu Cảng vào thời điểm xảy ra cuộc tấn công.
Người Mỹ, vốn vẫn còn có những quan điểm khác nhau về cuộc chiến ở châu Âu, chỉ sau một đêm đã hoàn toàn thống nhất lời mà trước đây Tổng thống Roosevelt nói - là một ngày ô nhục. Vào ngày 8/12, Quốc hội Mỹ đã tuyên chiến với Nhật Bản; ba ngày sau đó Đức và Italia đã tuyên chiến với Hoa Kỳ.
TỔNG ĐỘNG VIÊN CHO CUỘC CHIẾN
Nước Mỹ đã nhanh chóng thích ứng với việc động viên dân chúng và huy động toàn bộ ngành công nghiệp của đất nước cho cuộc chiến tranh. Sau ba năm rưỡi, ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh đã đạt được những những mục tiêu sản xuất đáng kinh ngạc: 300.000 máy bay, 5.000 tàu vận tải, 60.000 tàu đổ bộ và 86.000 xe tăng. Phụ nữ Mỹ, được thể hiện qua hình ảnh tiêu biểu của cô thợ tán đinh Rosie, đã có những đóng góp quan trọng hơn bao giờ hết vào sản xuất công nghiệp. Tổng số binh sỹ trong quân đội Mỹ tính đến cuối cuộc chiến là khoảng 12 triệu người. Tất cả các hoạt động của quốc gia như trồng trọt, sản xuất, khai thác mỏ, buôn bán, lao động, đầu tư, truyền thông, thậm chí giáo dục và văn hóa, trên một khía cạnh nào đó đều được diễn ra dưới sự kiểm soát mới và trên phạm vi rộng.
Vì hậu quả của cuộc tấn công Trân Châu Cảng và nỗi khiếp sợ đối với các gián điệp châu Á, người Mỹ đã phạm phải một hành động mà sau này bị đánh giá là thiếu khoan dung: đó là việc giam giữ những người Mỹ gốc Nhật. Tháng 2/1942, gần 120.000 người Mỹ gốc Nhật sống ở California đã bị cưỡng bức rời khỏi nhà của họ và bị giam giữ đằng sau hàng rào dây thép gai trong 10 khu trại tạm giam, sau đó, họ bị chuyển tới các trung tâm tái định cư ở ngoại vi các thành phố biệt lập ở miền Tây Nam nước Mỹ.
Gần 63% người Mỹ gốc Nhật này được sinh ra trên đất Mỹ và là công dân Mỹ. Một số ít trong số họ là người Nhật nhưng không có bằng chứng nào chứng tỏ họ có hoạt động gián điệp. Những người khác thì tình nguyện tòng quân cho quân đội Mỹ và đều chiến đấu rất xuất sắc và can đảm trong hai đơn vị bộ binh tại mặt trận Italia. Một số khác làm phiên dịch và biên dịch trên các hạm đội Thái Bình Dương.
Vào năm 1983, Chính phủ Mỹ đã công nhận sự bất công trong việc giam giữ này và đã trả một khoản tiền bồi thường lớn cho những người Mỹ gốc Nhật hiện còn sống và đã phải chịu đựng những bất công tại thời điểm đó.
CUỘC CHIẾN Ở BẮC PHI VÀ CHÂU ÂU
Không lâu sau khi Hoa Kỳ tham chiến, Mỹ, Anh và Liên Xô (trong cuộc chiến tranh với Đức từ ngày 22/6/1941) đã quyết định rằng các nỗ lực quân sự chính của họ phải tập trung ở châu Âu.
Trong năm 1942, quân đội Anh và Đức đã chạm trán nhau không phân thắng bại tại Libi và Ai Cập để giành quyền kiểm soát kênh đào Suez. Vào ngày 23/10, quân đội Anh, dưới sự chỉ huy của Tướng Bernard Montgomery đã đẩy lùi quân Đức khỏi El Alamein. Được trang bị 1000 xe tăng, mà phần lớn do Mỹ sản xuất, sau hai tuần giao chiến, quân Anh đã đánh bại quân Đức do Tướng Erwin Rommel chỉ huy. Ngày 7/11, quân đội Mỹ và Anh đã đổ bộ lên vùng thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi. Bị kẹt giữa các đội quân đang tiến đến từ cả phía Đông và phía Tây, quân Đức, sau khi chống trả dữ dội, đã đầu hàng vào tháng 5/1943.
Năm 1942 cũng là bước ngoặt trên mặt trận phía Đông nơi Liên Xô, sau khi phải chịu những tổn thất nặng nề, đã chặn đứng cuộc xâm lăng của quân Đức Quốc xã tại cửa ngõ thành Lê-nin-gờ-rát và Matx-cơ-va. Mùa đông năm 1942-1943, Hồng quân đã đánh bại quân Đức ở Stalingrat (Volgograd) và bắt đầu cuộc phản công trường kỳ đẩy lùi quân Đức Quốc xã rút lui về Berlin năm 1945.
Tháng 7/1943, quân đội Anh và Mỹ đã tấn công đảo Sicil và trong tháng đó, đã kiểm soát được toàn bộ đảo này. Trong thời gian này, Benito Mussolini đã từ chức ở Italia. Người kế nhiệm ông bắt đầu đàm phán với lực lượng Đồng minh và lập tức trao trả lại các vùng đất mà quân đội Italia đã đánh chiếm hồi tháng 9. Tuy nhiên, quân đội Đức Quốc xã vẫn còn đang kiểm soát bán đảo Italia. Cuộc chiến đấu chống lực lượng Đức Quốc xã ở Italia thực sự gian khổ và lâu dài. Mãi đến ngày 4/6/1944, thành Rome mới được giải phóng. Trong lúc tiến quân chậm chạp về phía Bắc, quân Đồng minh đã xây dựng các sân bay để từ đó tiến hành các vụ không kích ác liệt nhằm vào hệ thống đường sắt, nhà máy và các kho vũ khí tại miền Nam nước Đức và Trung Âu, trong đó có cả những kho cấp dầu ở Ploesti, Rumani.
Cuối năm 1943, sau nhiều cuộc tranh luận về chiến lược, quân Đồng minh đã quyết định mở mặt trận trên đất Pháp, buộc quân Đức phải rút các đội quân lớn hơn nhiều, ra khỏi mặt trận Liên bang Xô-viết.
Tướng Mỹ Dwight D.Eisenhower được cử làm Tư lệnh Tối cao các lực lượng Đồng minh ở châu Âu. Sau những đợt chuẩn bị công phu, ngày 6/6/1944, liên quân Mỹ, Anh, Canada được lực lượng không quân bảo vệ đã đổ bộ lên năm bãi biển ở vùng Normandy. Sau khi giành được các vị trí đầu cầu trên các bờ biển sau những trận đánh ác liệt, nhiều đơn vị khác đã tiếp tục đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp và khiến quân Đức phải rút lui hết trận này đến trận khác. Vào ngày 25/8, thành phố Paris đã được giải phóng.
Các cuộc phản công của quân Đồng minh đã bị chững lại vào mùa thu năm đó, và sau đó đi xuống tại miền Đông nước Bỉ trong suốt mùa đông năm đó. Tuy nhiên, tới tháng 3, liên quân Anh - Mỹ đã vượt qua sông Ranh, còn Hồng quân Liên Xô vẫn tiếp tục tiến lên không ngừng từ phía Đông. Vào ngày 7/5, nước Đức Quốc xã đã đầu hàng vô điều kiện.
CUỘC CHIẾN TRÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
Tuy các binh đội Mỹ đã bị bắt buộc phải đầu hàng ở Philippin vào đầu năm 1942, nhưng đội quân Mỹ đã hồi phục vào những tháng sau đó. Tướng James Jimmy Doolitle đã chỉ huy không quân Mỹ ném bom Tokyo vào tháng 4. Tuy cuộc tấn công đó có ít giá trị quân sự trên thực tế, nhưng nó đã đem lại cho quân đội Mỹ một sự củng cố mạnh mẽ về tâm lý.
Vào tháng 5, trong trận đánh ở biển San hô - trận thủy chiến đầu tiên trong lịch sử mà tất cả các cuộc ném bom đều do phi cơ trên tàu sân bay tiến hành - một hạm đội tàu chiến Nhật được cử đi tấn công Australia và New Ghinê đã buộc phải quay về trước sức tấn công giáp lá cà của lực lượng đặc nhiệm Mỹ. Một vài tuần sau đó, trận đánh Midway tại Trung Thái Bình Dương đã khiến Hải quân Nhật phải chịu thất bại lớn đầu tiên trong lịch sử, trong đó Hải quân Nhật đã mất bốn tàu sân bay. Nhờ việc chấm dứt sự tiến quân của Nhật Bản ngang qua Trung Thái Bình Dương, nên trận Midway đã được coi là một bước ngoặt quan trọng.
Những trận đánh khác cũng góp phần vào thắng lợi của phe đồng minh. Trận đánh kéo dài sáu tháng trên đất liền và các trận đánh trên biển chiếm đảo Guadalcanal (từ tháng 8/1942 đến tháng 2/1943) là chiến thắng quan trọng đầu tiên của quân đội Mỹ, góp phần vào thắng lợi của Mỹ trên biển Thái Bình Dương. Trong hai năm sau đó, liên quân Mỹ - Australia đã chiến đấu mở đường lên phía bắc, dọc theo chiếc thang nối gồm các đảo Trung Thái Bình Dương và sau đó, chiếm được các quần đảo Solomons, Gilberts, Marshalls và Marianas bằng một loạt các cuộc đột kích của lính thủy đánh bộ.
CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN TRANH
Bên cạnh những nỗ lực quân sự của khối Đồng minh, một loạt các cuộc gặp gỡ quốc tế quan trọng đã được tiến hành, bàn về các mục tiêu chính trị của chiến tranh. Tháng 1/1943, tại Casablanca, Marốc, Hội nghị Anh - Mỹ đã tuyên bố rằng hòa bình sẽ không được ký kết với các nước thuộc phe Trục và các nước chư hầu vùng Ban Căng, ngoại trừ các nước này chịu đầu hàng vô điều kiện. Điều khoản này do Roosevelt đưa ra, nhằm bảo đảm với nhân dân thuộc tất cả các dân tộc đang tham chiến rằng, sẽ không có những cuộc đàm phán hòa bình riêng rẽ nào được tiến hành với đại diện của chế độ phát -xít và Quốc xã; đồng thời, sẽ không có thỏa hiệp nào về các mục tiêu chính trị lý tưởng của chiến tranh. Tất nhiên, những người vận động chính trị này muốn dùng điều kiện này để khẳng định rằng phe Đồng minh đang tham gia vào một cuộc chiến của sự hủy diệt.
Tháng 11/1943, tại Cairo, Roosevelt và Churchill đã gặp gỡ thủ lĩnh Quốc dân Đảng Trung Hoa là Tưởng Giới Thạch để thương thuyết về những điều kiện đặt ra cho Nhật Bản, bao gồm cả việc từ bỏ những nguồn lợi có được nhờ các cuộc xâm lược trong quá khứ. Ngay sau đó, tại Tehran, Roosevelt, Churchill và người đứng đầu Hồng quân Xô-viết - Joseph Stalin đã có những thỏa thuận căn bản về việc chiếm đóng nước Đức sau chiến tranh và việc thành lập một tổ chức quốc tế mới - Liên Hợp Quốc.
Tháng 2/1945, ba nhà lãnh đạo này lại gặp nhau ở Yalta (thuộc Ucraina hiện nay), khi chiến thắng dường như đã chắc chắn. Tại đây, Liên Xô đã bí mật đồng ý tham chiến chống quân Nhật ba tháng sau khi quân Đức đầu hàng. Liên bang Xô-viết sẽ có quyền kiểm soát vùng Mãn châu và tiếp quản quần đảo Kurile và nửa phía Nam quần đảo Sakhalin. Vùng biên giới phía đông Ba Lan, trước kia đã được xác định sơ bộ bằng ranh giới Curzon vào năm 1919, do đó Liên Xô sẽ được quyền kiểm soát một nửa vùng lãnh thổ trước chiến tranh. Các cuộc thảo luận về việc đòi Đức Quốc xã phải bồi thường chiến tranh do Stalin khởi xướng đã không được sự đồng tình của Roosevelt và Churchill, do đó, không đi đến quyết định cuối cùng. Các cuộc gặp đặc biệt đã được tiến hành nhằm bàn về việc chiếm đóng nước Đức và xét xử tội phạm chiến tranh. Tại Yalta, các nhà lãnh đạo cũng thỏa thuận rằng các cường quốc trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc có quyền phủ quyết đối với các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia của họ.
Hai tháng sau khi từ Yalta trở về, Franklin Roosevelt đã qua đời vì bệnh nhồi máu não trong khi đang nghỉ ở Georgia. Có rất ít những nhân vật trong lịch sử Mỹ lại được thương tiếc sâu sắc đến như vậy, và trong suốt một thời gian dài, người Mỹ đã đau đớn do sự mất mát không gì thay thế được này. Phó Tổng thống Harry Truman, cựu Thượng nghị sỹ bang Missouri đã kế nhiệm làm tổng thống.
CHIẾN TRANH, CHIẾN THẮNG VÀ BOM NGUYÊN TỬ
Những trận đánh cuối cùng trên vùng Thái Bình Dương là những trận chiến ác liệt nhất của Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Tháng 6/1944, trận đánh trên biển Philippin đã phá tan Hải quân Nhật và buộc Thủ tướng Nhật lúc đó là Tojo phải từ chức. Tướng Douglas MacArthur, người đã miễn cưỡng rời Philippin hai năm trước để tránh bị quân Nhật bắt giữ - đã trở về quần đảo này vào tháng 10. Trận đánh đồng thời ở Vịnh Leyte đã dẫn tới thất bại mang tính quyết định của Hải quân Nhật và việc phục hồi quyền kiểm soát vùng lãnh hải Philippin cho Khối Đồng minh. Tháng 2/1945, quân đội Mỹ đã chiếm được Manila.
Sau đó Hoa Kỳ đã đặt các đài quan sát trên hòn đảo chiến lược là đảo Iwo Jima thuộc quần đảo Bonin nằm giữa tuyến đường nối quần đảo Marianas với Nhật Bản. Người Nhật, vốn được huấn luyện là phải sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Nhật hoàng, đã sống chết giữ đảo bằng cách trấn giữ các hang động tự nhiên và sử dụng địa thế núi non. Đến giữa tháng 3, quân Mỹ mới chiếm được đảo, nhưng phải chịu hi sinh sinh mạng của chừng 6.000 lính thủy quân lục chiến. Còn hầu hết lính đánh bộ của Nhật đều bị thiệt mạng. Sau đó, quân Mỹ đã tiến hành các cuộc không kích trên diện rộng vào tàu biển và sân bay của Nhật. Đồng thời, liên tiếp mở các cuộc ném bom vào các thành phố trên lãnh thổ Nhật Bản.
Từ ngày 1/4 đến ngày 21/6/1945, tại Okinawa, người Mỹ đã gặp phải sự chống trả còn quyết liệt hơn. Vì rất ít quân Nhật chịu đầu hàng, quân đội và thủy quân Mỹ đã buộc phải mở một cuộc chiến hủy diệt. Hàng loạt máy bay cảm tử đã ném bom căn cứ của quân Đồng minh khiến quân đội Mỹ và Hải quân lục chiến Mỹ bị không kích nặng nề tại Kamikaze, gây ra thiệt hại lớn hơn cả trong trận đánh Vịnh Leyte. Quân Nhật mất từ 90 đến 100 nghìn quân và có thể số dân thường Okinawa đã thiệt mạng cũng tương tự như vậy. Thiệt hại phía quân Mỹ là hơn 11.000 binh sỹ bị thiệt mạng và gần 34.000 người bị thương. Nhiều người Mỹ đã cho rằng cuộc chiến này là một ví dụ để họ có thể thấy trước những gì đang chờ đợi trong một cuộc xâm lược có tính toán từ trước của Nhật Bản.
Các nguyên thủ của Mỹ, Anh và Liên Xô đã gặp nhau ở Potsdam, ngoại ô thành phố Berlin từ ngày 17/7 đến ngày 2/8/1945 để thảo luận về các cuộc tấn công chống lại quân Nhật và giải quyết hòa bình ở châu Âu, đồng thời đưa ra một chính sách cho tương lai của nước Đức. Có thể trước khi kết thúc thảo luận liên minh, họ không gặp khó khăn gì trong việc thỏa thuận về những vấn đề mơ hồ về nguyên tắc hay những vấn đề thực tế của việc chiếm đóng quân sự, nhưng lại không thống nhất được với nhau về nhiều nội dung cụ thể, trong đó có vấn đề bồi thường thiệt hại chiến tranh.
Một ngày trước khi Hội nghị Potsdam bắt đầu, các nhà nghiên cứu nguyên tử Mỹ trong Dự án Mahathan bí mật đã cho nổ thử một quả bom nguyên tử ở Alamogordo, bang New Mexico. Đây là kết quả đỉnh cao của ba năm nghiên cứu rất vất vả trong các phòng thí nghiệm trên khắp nước Mỹ. Điều này đã dẫn tới Tuyên bố Postdam ngày 26/7 của Anh và Mỹ, trong đó tuyên bố rằng nước Nhật sẽ không bị tấn công và hủy diệt nếu chấp nhận đầu hàng. Tuy nhiên, nếu nước Nhật vẫn tiếp tục duy trì cuộc chiến thì nó sẽ bị tàn phá và hủy diệt hoàn toàn. Tổng thống Truman, tính toán rằng bom nguyên tử có thể được sử dụng để bắt buộc Nhật Bản phải nhanh chóng đầu hàng và nước Mỹ sẽ bớt được nhiều tổn thất do không cần phải tiến hành các cuộc tấn công trên mặt đất, đã ra lệnh sử dụng bom nguyên tử nếu Nhật Bản không chịu đầu hàng vào hạn chót là ngày 3/8/1945.
Một ủy ban bao gồm các quan chức quân sự, chính trị và các nhà khoa học của Mỹ đã cân nhắc về các mục tiêu cho loại vũ khí mới này. Bộ trưởng Chiến tranh Henry L.Stimson đã biện luận thành công rằng, Kyoto, cố đô của nước Nhật, là kho tàng lưu giữ nhiều tài sản quý giá của dân tộc và của tôn giáo Nhật Bản, do đó, không phải là mục tiêu của cuộc ném bom. Hiroshima, trung tâm công nghiệp chiến tranh và các hoạt động quân sự đã được chọn làm mục tiêu đầu tiên.
Vào ngày 6/8, một phi cơ Mỹ, chiếc Enola Gay, đã ném một quả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima. Ngày 9/8, quả bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki. Hai quả bom nguyên tử đã tàn phá phần lớn cả hai thành phố và khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Ngày 8/8, Liên Xô đã tuyên chiến với Nhật và tấn công quân đội Nhật Bản ở Mãn Châu. Ngày 14/8, nước Nhật đã đồng ý với các điều khoản trong tuyên bố Postdam. Ngày 2/9/1945, nước Nhật đã chính thức đầu hàng. Người Mỹ đã thở phào nhẹ nhõm rằng bom nguyên tử đẩy nhanh sự chấm dứt của chiến tranh. Song, cho đến mãi sau này, người Mỹ mới nhận thức được về tính hủy diệt đáng sợ của nó.
Sau đó một tháng, ngày 24/10/1945, Liên Hợp Quốc đã chính thức được thành lập, sau cuộc họp ở San Francisco, bang California bao gồm các đại biểu từ 50 quốc gia trên thế giới. Hiến chương Liên Hợp Quốc được phác thảo nhằm thiết lập một tổ chức quốc tế mà trong đó mọi khác biệt quốc tế đều có thể được thảo luận một cách hòa bình, với mục tiêu chung là chống lại đói nghèo và bệnh tật. Trái ngược với việc phản đối quyền thành viên của Hoa Kỳ trong Hội Quốc Liên sau Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, Thượng viện Mỹ đã nhanh chóng phê chuẩn Hiến chương Liên Hợp Quốc với 89 phiếu thuận và hai phiếu chống. Động thái này đã khẳng định việc chấm dứt chủ nghĩa biệt lập của Mỹ vốn vẫn được coi là một thành tố chủ đạo trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Tháng 11/1945, tại Nuremberg nước Đức, theo thỏa thuận tại Postdam, các phiên tòa hình sự xét xử 22 thủ lĩnh Đức Quốc xã đã được tiến hành. Trước một nhóm các thẩm phán xuất sắc đến từ Anh, Pháp, Liên Xô và Hoa Kỳ, những tên Đức Quốc xã này đã bị cáo buộc là không chỉ có âm mưu và gây chiến tranh xâm lược, mà còn vi phạm các điều luật chiến tranh và gây ra nạn diệt chủng có hệ thống, được gọi là Nạn diệt chủng, đối với người Do Thái ở châu Âu và các dân tộc khác. Các phiên tòa đã kéo dài hơn mười tháng. 22 kẻ diệt chủng đã bị buộc tội, và 12 trong số đó phải lãnh án tử hình. Các phiên tòa tương tự cũng được tiến hành để xét xử các thủ lĩnh trong chiến tranh Nhật Bản.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NGHIỆP ĐOÀN
Mặc dù thập niên 1920 là những năm tương đối thịnh vượng ở Hoa Kỳ, song công nhân trong các ngành công nghiệp như ngành luyện thép, ôtô, cao su và dệt may lại nhận được ít lợi ích hơn so với những năm sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Điều kiện làm việc trong nhiều ngành công nghiệp đã được cải thiện. Một vài công ty vào những năm 1920 đã bắt đầu thiết lập chủ nghĩa tư bản phúc lợi bằng cách trả lương hưu cho lao động, chia lợi nhuận, quyền chọn mua cổ phiếu công ty và các chương trình chăm sóc sức khỏe nhằm có được sự gắn bó trung thành từ phía người lao động. Tuy nhiên, tại thời điểm này, môi trường làm việc của công nhân vẫn khắc nghiệt và mang tính chuyên chế.
Những năm 1920 đã chứng kiến việc giới chủ trong ngành công nghiệp tăng cường gấp đôi mọi nỗ lực của mình nhằm ngăn ngừa sự phát triển của các tổ chức công đoàn, vốn đã từng giành được một số thành công trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất dưới sự lãnh đạo của Liên đoàn Lao động Mỹ (AFL). Hành động của giới chủ thể hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có việc sử dụng gián điệp và sử dụng những kẻ phá hoại bãi công có vũ trang và bằng cách sa thải những người bị nghi ngờ ủng hộ các tổ chức công đoàn. Các công đoàn độc lập thường bị buộc tội là Cộng sản. Đồng thời, nhiều công ty đã thành lập các tổ chức công đoàn riêng cho công nhân của mình và gọi đó là các công đoàn công ty.
Về truyền thống thì các cơ quan lập pháp đều ủng hộ quan điểm của tầng lớp trung lưu Mỹ về một phân xưởng mở, nhằm ngăn không cho công đoàn trở thành đại diện duy nhất của tất cả công nhân. Điều đó đã khiến cho các công ty dễ dàng hơn trong việc phủ nhận quyền thỏa thuận tập thể của các công đoàn và gây cản trở cho quá trình thành lập công đoàn thông qua cưỡng chế của tòa án.
Từ năm 1920 đến năm 1929, số lượng thành viên công đoàn ở Hoa Kỳ đã sụt giảm từ gần năm triệu người xuống còn ba triệu rưỡi. Còn những ngành công nghiệp lớn sử dụng lao động giản đơn hoặc những lao động có tay nghề thấp thì vẫn chưa có tổ chức công đoàn của mình.
Cuộc Đại suy thoái nổ ra đã dẫn tới nạn thất nghiệp trên diện rộng. Cho tới năm 1933, đã có hơn 12 triệu người Mỹ mất việc làm. Ví dụ như trong ngành công nghiệp ôtô, lực lượng lao động bị cắt giảm một nửa trong khoảng thời gian từ năm 1929 đến năm 1933. Đồng thời, tiền lương bị cắt giảm tới hai phần ba.
Tuy nhiên, việc bầu Franklin Roosevelt làm tổng thống đã làm thay đổi tình trạng đáng buồn của người lao động trong các ngành công nghiệp Mỹ. Bằng chứng đầu tiên cho thấy Roosevelt quan tâm tới điều kiện sống và lao động của tầng lớp công nhân là việc chỉ định Frances Perkins - người tiên phong ủng hộ phúc lợi xã hội - làm Bộ trưởng Lao động (Perkins cũng là người phụ nữ đầu tiên giữ cương vị Bộ trưởng trong Nội các). Sau đó, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Tái thiết Công nghiệp Quốc gia nhằm tăng tiền lương, giảm giờ làm và chấm dứt mọi hình thức lao động trẻ em. Quan trọng hơn cả là đạo luật này đã công nhận quyền được tổ chức và thỏa thuận tập thể thông qua các đại diện do người lao động lựa chọn.
John L.Lewis, thủ lĩnh khéo léo và có tài ăn nói của Liên minh Công nhân ngành Mỏ (UMW) là người hiểu rõ hơn bất kỳ thủ lĩnh lao động nào khác về những điều mà Chính sách Kinh tế Xã hội mới đã đem lại cho tầng lớp công nhân. Dựa vào sự ủng hộ của Roosevelt, Lewis đã thực hiện một chiến dịch phát triển công đoàn và khiến số thành viên của UMW tăng từ 150.000 người lên tới 500.000 người trong vòng một năm.
Lewis cũng liên kết với Liên đoàn Lao động Mỹ (AFL), trong đó, ông là thành viên của Ban Chấp hành, để khởi xướng một cuộc vận động tương tự trong các ngành công nghiệp sản xuất hàng loạt. Nhưng tổ chức AFL, với trọng tâm truyền thống là phục vụ quyền lợi của những công nhân tay nghề cao trong ngành thương mại lại không muốn làm như vậy. Sau một cuộc tranh cãi nội bộ gay gắt, Lewis và một số người khác đã cắt đứt quan hệ với AFL và thành lập ủy ban Tổ chức Công nghiệp (CIO), sau này đổi tên thành Đại hội các Tổ chức Công nghiệp. Việc thông qua Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRA) năm 1935 và mối thiện cảm của ủy ban Quan hệ Lao động Quốc gia đã trao cho CIO sức mạnh và quyền tự quyết bên cạnh Chính quyền Liên bang.
Những mục tiêu đầu tiên của CIO là các ngành công nghiệp ôtô và thép vốn nổi tiếng vì thái độ bài xích các tổ chức công đoàn. Vào cuối năm 1936, một loạt các cuộc bãi công do Liên đoàn Công nhân ôtô dưới thời Walter Reuther lãnh đạo đã bùng nổ ở các nhà máy của công ty General Motors ở Cleveland, Ohio và ở Flint, bang Michigan. Chẳng bao lâu sau, 135.000 công nhân đã tham gia bãi công và hoạt động sản xuất của GM đã bị đình đốn.
Cùng với sự ủng hộ của thống đốc bang Michigan, việc giải quyết các yêu cầu trong cuộc biểu tình đã được tiến hành vào năm 1937. Cho tới tháng 9 năm đó, Liên đoàn Công nhân ôtô đã có thỏa thuận với 400 công ty trong ngành công nghiệp ôtô, nhằm đảm bảo cho người lao động có mức tiền lương tối thiểu là 75 xu cho một giờ lao động và mỗi tuần họ chỉ phải làm việc 40 giờ.
Trong sáu tháng đầu tiên sau khi được thành lập, ủy ban Tổ chức Công nhân ngành Thép (SWOC) do người tuỳ tùng của Lewis là Philip Marrey lãnh đạo đã thu hút được 125.000 thành viên. Công ty thép lớn nhất của Mỹ, U.S. Steel, nhận thức được rằng thời thế đã thay đổi, và cũng đã thỏa hiệp với SWOC vào năm 1937. Cùng năm đó, Tòa án Tối cao đã duy trì tính chất hợp hiến của NLRA. Hệ quả là các công ty nhỏ hơn vốn có truyền thống chống đối các tổ chức công đoàn, thậm chí còn bài xích mạnh hơn cả các công ty lớn, cuối cùng cũng đã nhượng bộ. Dần dần, các ngành công nghiệp khác như cao su, dầu mỏ, điện tử và dệt may, cũng tuần tự thỏa hiệp với các tổ chức công đoàn. Sự lớn mạnh của lực lượng lao động đã gây ra hai ảnh hưởng lớn có tính dài hạn. Nó trở thành nội dung quan trọng trong tổ chức của Đảng Dân chủ Quốc gia và đã mang lại nhiều lợi ích vật chất cho các thành viên; đồng thời, xóa mờ khoảng cách kinh tế giữa tầng lớp công nhân lao động và tầng lớp trung lưu ở nước Mỹ.
Chương 12: Nước Mỹ sau chiến tranh
"Chúng ta phải xây dựng một thế giới mới, một thế giới tốt đẹp hơn nhiều - trong đó chân giá trị vĩnh cửu của con người phải được tôn trọng"
Tổng thống Harry S. Truman,1945
SỰ ĐỒNG THUẬN VÀ SỰ THAY ĐỔI
Trong những năm ngay sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, nước Mỹ đã có ảnh hưởng lớn chi phối các công việc toàn cầu. Là người chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Thế giới, lại không bị tàn phá bởi chiến tranh, cả dân tộc Mỹ tin tưởng vào sứ mạng quốc gia trong cả chính sách đối nội và đối ngoại. Những người lãnh đạo Hoa Kỳ muốn duy trì cấu trúc dân chủ mà họ đã bảo vệ với một giá đắt và muốn chia sẻ rộng rãi những lợi ích của sự thịnh vượng. Với họ, như Henry Luce, chủ bút tạp chí Time, đã nói, giai đoạn này là thế kỷ của nước Mỹ.
Trong suốt 20 năm, phần lớn người Mỹ đều tin tưởng vào quan điểm này. Họ đồng ý với lập trường phản đối Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh vốn đã bắt đầu bộc lộ ngay sau năm 1945. Họ tán thành việc tăng cường quyền lực của chính phủ và thừa nhận những nguyên tắc chung của nhà nước thịnh vượng vốn đã được hình thành từ thời kỳ Chính sách kinh tế mới. Họ tận hưởng sự thịnh vượng sau chiến tranh, sự thịnh vượng đã tạo ra những thang bậc mới của sự giàu có.
Nhưng dần dần, một số người Mỹ bắt đầu nghi ngờ những giả định chính đó. Thách thức trên rất nhiều mặt trận đã đập tan sự đồng thuận trước đó. Vào thập niên 1950, những người Mỹ gốc Phi đã khởi xướng một chiến dịch vận động lớn, mà sau này đã nhận được sự hưởng ứng của các nhóm dân tộc thiểu số và các nhóm phụ nữ, nhằm chia sẻ rộng rãi hơn cái gọi là giấc mơ Mỹ. Vào thập niên 1960, những sinh viên tích cực hoạt động chính trị đã phản đối vai trò của Mỹ ở nước ngoài, đặc biệt trong cuộc chiến tranh khiến nước Mỹ hao tổn quá nhiều tại Việt Nam. Nhóm thanh niên trong phong trào văn hóa mới xuất hiện cũng thách thức nguyên trạng của các giá trị văn hóa Mỹ. Người Mỹ thuộc nhiều tầng lớp đang cố gắng xác lập trạng thái cân bằng chính trị xã hội mới ở nước Mỹ.
CÁC MỤC TIÊU CỦA CHIẾN TRANH LẠNH
Chiến tranh Lạnh là vấn đề chính trị quan trọng nhất trong thời kỳ ngay sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nó xuất phát từ những bất đồng kéo dài giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã bắt đầu xuất hiện ngay từ sau Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917. Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I. Lênin lãnh đạo đã xem mình có sứ mạng dẫn đầu một phong trào quốc tế làm thay đổi trật tự chính trị đang tồn tại ở phương Tây, và từ đó, làm thay đổi trật tự chính trị trên thế giới. Năm 1918, quân đội Mỹ đã tham chiến trong quân đội Đồng minh can thiệp vào Nga lấy cớ đại diện cho các lực lượng chống Bôn-sê-vích. Mãi đến năm 1933, nước Mỹ mới công nhận ngoại giao đối với Liên Xô. Nhưng thậm chí sau đó thì giữa hai quốc gia vẫn luôn có sự nghi ngờ và đề phòng lẫn nhau. Tuy nhiên, trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, hai nước đã trở thành đồng minh và cùng gạt bỏ những bất đồng để cùng đấu tranh chống lại Chủ nghĩa Phát-xít Đức.
Khi chiến tranh kết thúc, sự đối địch lại một lần nữa xuất hiện. Nước Mỹ mong muốn được chia sẻ cùng với các quốc gia khác những khái niệm mới về tự do, bình đẳng và dân chủ. Nước Mỹ cũng đã học được nhiều bài học từ những sai lầm đã mắc phải trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, khi nó duy trì chủ nghĩa biệt lập, không chịu tham gia các cam kết chính trị và thực hiện bảo hộ kinh tế, khiến chủ nghĩa phát xít và các chế độ độc tài có cơ hội phát triển và thống lĩnh tại châu Âu và tại một vài nơi khác trên thế giới. Lại phải đối mặt với một thế giới thời hậu chiến đầy rẫy các cuộc Nội chiến và các đế quốc đang tan rã, nước Mỹ đã hy vọng sẽ đem lại sự ổn định làm cơ sở cho công cuộc tái thiết. Nhớ lại bóng ma của thời kỳ Đại suy thoái (1929 - 1940), giờ đây, nước Mỹ đã chủ trương mở cửa ngoại thương vì hai lý do: tạo thị trường cho các sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp và bảo đảm khả năng xuất khẩu của các nước Tây Âu - phương cách tốt nhất để các quốc gia này tái thiết kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách thị trường của Mỹ tin rằng việc giảm hàng rào thuế quan có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong và ngoài nước Mỹ, đồng thời giúp đỡ được các quốc gia đồng minh và bạn bè của nước này.
Liên Xô lại có chương trình hành động riêng. Phương thức quản lý tập trung bao cấp truyền thống trong lịch sử nước Nga trái ngược hẳn với hình mẫu dân chủ của nước Mỹ. Hệ tư tưởng Mác-xít Lê-nin-nít đã tạm lắng trong chiến tranh nhưng vẫn tiếp tục là kim chỉ nam cho các chính sách của Nga. Đất nước bị tàn phá nặng nề, 20 triệu người đân Xô-viết đã chết trong chiến tranh, Liên Xô cần phải tập trung toàn lực để tái thiết đất nước và tự bảo vệ mình khỏi những xung đột mới có thể xảy ra. Người dân Xô-viết đặc biệt cảnh giác trước nguy cơ bị xâm lấn đất đai từ phía Tây. Sau khi đẩy lùi sự tấn công của Hitler, Liên Xô quyết tâm ngăn ngừa những cuộc tấn công tương tự. Họ yêu cầu một đường biên giới được bảo vệ và các chế độ thân hữu ở Đông Âu, đồng thời truyền bá hệ tư tưởng của Chủ nghĩa Cộng sản. Tuy nhiên, Hoa Kỳ chủ trương rằng, một trong những mục tiêu chiến tranh mà Mỹ hướng tới là đảo ngược những ảnh hưởng đó tại Ba Lan, Tiệp Khắc và các quốc gia khác ở Trung và Đông Âu.
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỔNG THỐNG HARRY TRUMAN
Harry Truman kế vị Franklin D. Roosevelt làm tổng thống trước khi chiến tranh thế giới chấm dứt. Vốn là một người khiêm tốn, từng là Thượng nghị sỹ Đảng Dân chủ bang Missouri, sau đó làm Phó Tổng thống, lúc đầu, Truman cảm thấy mình chưa được chuẩn bị tốt để có thể lãnh đạo đất nước. Roosevelt không thảo luận những vấn đề phức tạp thời hậu chiến với ông, và ông có ít kinh nghiệm trong các vấn đề quốc tế. "Tôi chưa đủ trưởng thành cho công việc này", ông đã từng nói với một đồng nghiệp cũ như vậy.
Nhưng Truman đã nhanh chóng thích ứng được trước những thách thức mới. Đôi khi có vẻ như hấp tấp trước những vấn đề nhỏ, nhưng ông lại tỏ ra rất sẵn sàng đưa ra những quyết định khó khăn và cân nhắc thận trọng đối với các vấn đề lớn. Một tấm biển đặt trên bàn làm việc của ông ở Nhà Trắng đã viết: “Tôi là người chịu trách nhiệm cuối cùng về mọi việc". Những cân nhắc của ông về việc phản ứng lại đối với Liên Xô như thế nào cuối cùng đã có ảnh hưởng quan trọng tới thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh.
NGUỒN GỐC CỦA CHIẾN TRANH LẠNH
Chiến tranh Lạnh xảy ra khi những khác biệt về hình thù của thế giới thời hậu chiến đã tạo ra những nghi ngờ giữa Mỹ và Liên Xô. Bất đồng đầu tiên và khó giải quyết nhất là vấn đề Ba Lan: một nửa lãnh thổ phía đông của nước này phải chịu sự ảnh hưởng của Liên Xô; trong khi đó, Washington lại muốn đem tới cho quốc gia này một thể chế chính trị theo khuôn mẫu của phương Tây. Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945 đã đi đến một thỏa thuận về một Đông Âu mở cửa cho các mô thức khác nhau. Thỏa thuận này cũng hứa hẹn về các cuộc bầu cử tự do và không hạn chế.
Gặp gỡ Ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav Molotov ngay trong tuần thứ hai sau khi nhậm chức Tổng thống, Truman đã bày tỏ quan điểm cương quyết của Hoa Kỳ muốn người dân Ba Lan được thực hiện quyền tự quyết của họ và nhắc nhở nước Nga phải thực hiện đúng những thỏa thuận đã có ở Yalta. Khi Molotov phản đối rằng "Chưa ai dám nói với tôi bằng cái giọng như vậy", thì Truman đã đập lại "Nếu ông thực hiện đúng những gì ông đã thỏa thuận, thì ông sẽ không bị người ta nói chuyện bằng cái giọng đó nữa". Từ đó, quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô và Mỹ đã ngày một xấu đi.
Trong những tháng cuối cùng của Chiến tranh Thế giới Thứ hai, quân đội Liên Xô đã có mặt ở toàn bộ khu vực Đông và Trung Âu. Matx-cơ-va đã sử dụng sức mạnh quân sự để hỗ trợ cho các nỗ lực của các Đảng Cộng sản ở Đông Âu và đập tan các đảng dân chủ. Những người Cộng sản lên nắm quyền ở hết quốc gia này đến quốc gia khác trong khu vực. Tiến trình này kết thúc bằng cuộc đảo chính gây chấn động tại Tiệp Khắc vào năm 1948.
Các bài phát biểu trước dân chúng của cả hai phe đã châm ngòi cho Chiến tranh Lạnh. Năm 1946, Stalin đã tuyên bố rằng hòa bình thế giới là điều không thể có nếu vẫn còn tồn tại hình thức phát triển tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế thế giới. Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill đã trình bày bài diễn văn ấn tượng của mình ở Fulton, Missouri, cùng sự góp mặt của Truman trên khán đài. Ông nói, từ Stettin ở Ban-tích đến Trieste ở Adriatic, một tấm màn sắt đã buông xuống chắn ngang châu lục. Ông tuyên bố rằng Anh và Mỹ cần phải cùng nhau chống lại mối đe dọa từ Liên Xô.
CHÍNH SÁCH NGĂN CHẶN
Chính sách ngăn chặn Liên Xô đã trở thành chính sách của Mỹ trong những năm hậu chiến tranh. George Kennan, quan chức cao nhất của Đại sứ quán Mỹ ở Matx-cơ -va đã xác nhận một quan điểm mới trong một bức điện dài gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ năm 1946. Sau khi trở về Mỹ, ông đã trình bày kỹ hơn những phân tích của mình trong một bài báo được đăng tải dưới chữ ký X trong tờ tạp chí có uy tín lớn Foreign Affairs. Chỉ ra cảm giác truyền thống của nước Nga về sự không an toàn, Kennan đã biện luận rằng Liên Xô sẽ không thay đổi lập trường của họ dù trong bất kỳ tình huống nào. Ông viết, Matx-cơ -va đã tin tưởng một cách cuồng tín rằng bắt tay với nước Mỹ sẽ không thể đem lại sự ổn định; họ muốn rằng sự hài hòa bên trong xã hội Mỹ sẽ bị phá vỡ. Áp lực của Matx - cơ - va nhằm mở rộng quyền lực của mình buộc phải bị ngăn lại bằng một chính sách kiên quyết và cảnh giác nhằm ngăn chặn xu hướng bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô...
Đầu tiên, Học thuyết về Chính sách Ngăn chặn được áp dụng ở vùng Đông Địa Trung Hải. Đầu năm 1946, Mỹ yêu cầu và buộc Liên Xô phải rút quân khỏi phía Bắc Iran, phần lãnh thổ mà Liên Xô đã chiếm đóng trong chiến tranh. Mùa hè năm đó, Mỹ đã tỏ rõ sự ủng hộ Thổ Nhĩ Kỳ chống lại những đòi hỏi của Liên Xô trong việc kiểm soát vùng eo biển giữa Biển Đen và Địa Trung Hải. Vào đầu năm 1947, chính sách của Mỹ kết tinh khi Anh thông báo với Hoa Kỳ rằng họ không còn khả năng tiếp tục ủng hộ Chính phủ Hy Lạp chống lại sự bành trướng mạnh mẽ của Cộng sản nữa.
Trong một bài diễn văn hùng hồn trước Quốc hội, Truman đã tuyên bố "Tôi tin rằng Hoa Kỳ phải có một chính sách ủng hộ các dân tộc tự do đang đấu tranh chống lại sự bành trướng từ các nhóm thiểu số có vũ trang hay từ những áp lực bên ngoài". Các nhà báo nhanh chóng gọi bài phát biểu này là Học thuyết Truman. Tổng thống đã yêu cầu Quốc hội cung cấp 400 triệu đô-la để viện trợ kinh tế và quân sự, chủ yếu cho Hy Lạp nhưng cũng dành cho cả Thổ Nhĩ Kỳ. Sau một cuộc tranh luận gay gắt giống như cuộc tranh luận đã từng nổ ra giữa phái ủng hộ tư tưởng biệt lập và phái ủng hộ tư tưởng can thiệp hồi trước Chiến tranh Thế giới Thứ hai, khoản tiền này đã được Quốc hội nhất trí thông qua.
Sau đó, những lời chỉ trích từ cánh hữu đã chỉ trích rằng, để thuyết phục người Mỹ ủng hộ chính sách ngăn chặn, Truman đã cường điệu hóa mối đe dọa của Liên Xô đối với Hoa Kỳ. Những lời tuyên bố của ông làm dấy lên một làn sóng cuồng loạn chống Cộng sản trên khắp nước Mỹ. Tuy nhiên, một số người khác thì cho rằng quan điểm trên đã không tính đến sự phản đối dữ dội có thể sẽ nổ ra nếu Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước khác rơi vào quỹ đạo của Liên Xô mà không có sự phản đối nào từ phía Mỹ.
Chính sách ngăn chặn cũng kêu gọi những khoản viện trợ kinh tế khổng lồ nhằm hỗ trợ cho việc phục hồi các nước bị tàn phá sau chiến tranh ở Tây Âu. Vì rất nhiều quốc gia trong khu vực này không ổn định về kinh tế và chính trị, nên Hoa Kỳ lo sợ rằng các Đảng Cộng sản địa phương được Matx-cơ -va chỉ đạo sẽ lợi dụng chiến công chống quân Quốc Xã của mình để giành quyền lực. “Người bệnh đang nguy cấp trong lúc các bác sỹ vẫn còn đang cân nhắc", Ngoại trưởng George C. Marshall đã nhận xét như vậy. Vào giữa năm 1947, Marshall đã đề nghị các nước châu Âu đang gặp khó khăn cần khởi thảo một chương trình không chống lại bất kỳ quốc gia nào hay bất kỳ học thuyết nào, mà chỉ chống lại nạn đói, sự nghèo khổ, nỗi tuyệt vọng và sự hỗn loạn.
Người Liên Xô đã tham gia vào cuộc họp trù bị đầu tiên, sau đó họ cũng đã rút lui và không chia sẻ các dữ liệu kinh tế, và đã chịu sự kiểm soát của phương Tây trong việc chi tiêu khoản viện trợ. Mười sáu quốc gia còn lại đã thảo ra một bản yêu cầu và cuối cùng, con số 17 tỷ đô-la cho giai đoạn bốn năm đã được đưa ra. Vào đầu năm 1948, Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu thông qua việc cấp kinh phí cho Kế hoạch Marshall, nhằm viện trợ phục hồi kinh tế cho các nước Tây Âu. Nhìn chung, đây là một trong số những sáng kiến chính sách ngoại giao thành công nhất của Mỹ trong lịch sử.
Nước Đức thời hậu chiến là một vấn đề đặc biệt. Nó bị chia thành các khu vực chiếm đóng của Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp với thủ đô cũ của Đức là Berlin (chính thành phố này cũng bị chia thành bốn khu vực), nằm gần trung tâm khu vực do Liên Xô chiếm đóng. Khi các cường quốc phương Tây công bố ý định của họ nhằm tạo ra một Nhà nước Liên bang Hợp nhất từ các khu vực do họ chiếm đóng thì Stalin đã có phản ứng. Vào ngày 24/6/1948, các đơn vị quân đội Liên Xô đã bao vây Berlin, cắt đứt tất cả các đường bộ và đường sắt từ phương Tây dẫn tới thành phố này.
Các nhà lãnh đạo Mỹ lo sợ rằng, việc mất Berlin có thể là khúc dạo đầu cho việc mất toàn bộ nước Đức và tiếp theo là toàn bộ châu Âu. Vì vậy, trong cuộc phô diễn bày tỏ quyết tâm của phương Tây, được biết dưới cái tên Cầu không vận Berlin, các lực lượng không quân Đồng minh đã chiếm lĩnh bầu trời để tiếp tế cho Berlin. Các máy bay Mỹ, Pháp và Anh đã cung cấp gần 2.250.000 tấn hàng hóa, bao gồm lương thực và than. Stalin đã chấm dứt bao vây thành Berlin sau 231 ngày với 277.264 chuyến bay của phương Tây.
Sau đó, sự thống trị của Liên Xô ở Đông Âu, và đặc biệt là cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc đã báo động cho các nước phương Tây. Kết quả, do các nước Tây Âu khởi xướng, là một liên minh quân sự để bổ sung cho những cố gắng về kinh tế trong Chính sách Ngăn chặn. Nhà sử học người Na Uy Geir Lundestad đã mệnh danh liên minh đó là Vị Hoàng đế được mời đến. Vào năm 1949, Hoa Kỳ và 11 quốc gia khác đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Nếu một quốc gia thành viên bị tấn công, thì phải coi đó là cuộc tấn công chống lại tất cả các quốc gia thành viên khác, và do đó, phải được đáp trả bằng sức mạnh thích hợp. NATO là một liên minh quân sự thời bình đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ mà quyền lực của nó vượt ra khỏi địa phận Tây Bán Cầu.
Một năm sau đó, Hoa Kỳ đã xác định rõ ràng mục tiêu phòng thủ của mình. Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) - một diễn đàn trong đó Tổng thống, các thành viên Nội các và các thành viên hành pháp xem xét các vấn đề an ninh quốc gia và chính sách đối ngoại - đã tiến hành rà soát toàn bộ chính sách đối ngoại và quốc phòng của Hoa Kỳ. Văn kiện mang tên NSC 68 của diễn đàn này đã ghi nhận một phương hướng mới trong chính sách an ninh của Mỹ. Dựa trên giả định rằng Liên Xô có một nỗ lực cuồng tín nhằm kiểm soát mọi chính phủ ở bất kỳ nơi nào có thể, văn kiện này đã giao phó cho nước Mỹ một nhiệm vụ trợ giúp các quốc gia đồng minh ở bất kỳ nơi nào trên thế giới đang bị Liên Xô đe doạ. Sau khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Truman đã miễn cưỡng phê chuẩn văn kiện này. Hoa Kỳ tiếp tục tăng chi tiêu cho quốc phòng một cách mạnh mẽ chưa từng có.
CHIẾN TRANH LẠNH Ở CHÂU Á VÀ TRUNG ĐÔNG
Trong khi tìm cách ngăn ngừa hệ tư tưởng Cộng sản đang lan tràn ở châu Âu, Hoa Kỳ cũng phản ứng lại những thách thức tại nhiều khu vực khác trên thế giới. Ở Trung Quốc, người Mỹ lo ngại những bước tiến của Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản của ông. Trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và các lực lượng cộng sản đã gây ra cuộc Nội chiến, thậm chí ngay trong khi họ đang đấu tranh với quân Nhật. Tưởng Giới Thạch đã từng là đồng minh thời chiến, nhưng chính phủ Tưởng đã mất hiệu lực một cách vô vọng và đang thối nát vì nạn tham nhũng. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ chỉ có ít hy vọng duy trì được chế độ Tưởng Giới Thạch và coi châu Âu là một khu vực quan trọng hơn nhiều. Do phần lớn hỗ trợ của Mỹ đang tập trung ở bờ Đại Tây Dương, lực lượng Mao Trạch Đông cuối cùng đã giành được chính quyền vào năm 1949. Chính quyền Tưởng Giới Thạch đã chạy sang bán đảo Đài Loan. Khi Mao Trạch Đông tuyên bố rằng chế độ mới của ông sẽ ủng hộ Liên Xô để chống lại đế quốc Mỹ thì rõ ràng là chủ nghĩa cộng sản đã phát triển rộng rãi ngoài tầm kiểm soát của Hoa Kỳ, chí ít cũng là ở châu Á.
Cuộc Chiến tranh Triều Tiên đã làm bùng nổ cuộc xung đột vũ trang giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Khối Đồng minh đã phân chia Triều Tiên dọc theo vĩ tuyến 38 sau khi đã giải phóng nước này khỏi ách thống trị của Nhật Bản vào cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Vốn lúc đầu chỉ là để tiện lợi về quân sự, giới tuyến này đã ngày càng trở nên khắc nghiệt, hai cường quốc lớn đều lập chính phủ tại các khu vực chiếm đóng riêng rẽ của mình và tiếp tục ủng hộ các chính phủ đó, thậm chí ngay cả sau khi đã rút quân.
Tháng 6/1950, sau khi đã tham vấn và được sự ủng hộ về quân sự của Liên Xô, vị lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim-Il Sung đã chỉ huy các binh đội Bắc Triều Tiên vượt qua vĩ tuyến 38, và đánh về phía nam sau khi tràn qua Seoul. Nhìn nhận Bắc Triều Tiên là lực lượng thân cận do Liên Xô chỉ đạo trong cuộc chiến toàn cầu, Truman đã chuẩn bị cho các lực lượng vũ trang Mỹ sẵn sàng tham chiến và ra lệnh cho Tướng Doughlas McArthur - người hùng trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai - tới Triều Tiên. Trong khi đó, Hoa kỳ đã thuyết phục được Liên Hợp Quốc ra nghị quyết coi Bắc Triều Tiên là kẻ xâm lược (Liên Xô, vốn có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an, đã tẩy chay Liên Hợp Quốc để phản đối quyết định không kết nạp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dưới thời Mao Trạch Đông vào tổ chức này).
Cuộc chiến tranh đã xảy ra ác liệt trong thế giằng co giữa hai phía. Quân đội Hoa Kỳ và Triều Tiên lúc đầu bị đẩy về phía nam ở vùng đất lọt giữa khu vực xung quanh thành phố Pusan. Cuộc đổ bộ táo bạo của lính thủy đánh bộ Mỹ từ ngoài biển tại Inchon, một cảng của thành phố Seoul, đã đẩy lui quân Bắc Triều Tiên và đe dọa chiếm đóng toàn bộ vùng bán đảo Triều Tiên. Vào tháng 11, Trung Quốc đã tham chiến và phái các lực lượng quân sự của mình vượt qua sông Yalu. Lực lượng Liên Hợp Quốc, mà chủ yếu là quân Mỹ, đã lại phải rút lui trong một trận đánh ác liệt. Dưới sự chỉ huy của Tướng Matthew B. Ridgway, quân Mỹ đã chặn đứng đường tiến của quân đội Trung Quốc, sau đó, dần dần giành lại con đường trở về với vĩ tuyến 38. Trong khi đó, Mac Arthur đã thách thức quyền lực của tổng thống Truman bằng cách kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng trong việc ném bom Trung Quốc và hỗ trợ cho lực lượng Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch để tấn công Trung Quốc lục địa. Tháng 4/1951, Truman đã miễn nhiệm Mac Arthur và thay ông bằng Tướng Mathew Ridgeway.
Những rủi ro của Chiến tranh Lạnh là rất lớn. ý thức được về ưu tiên dành cho châu Âu, Chính phủ Mỹ đã quyết định ngừng đưa quân tới Triều Tiên và sẵn sàng đồng ý với hiện trạng trước chiến tranh. Điều này đã gây thất vọng cho nhiều người Mỹ vốn không thể hiểu được sự cần thiết của việc kiềm chế chiến tranh. Uy tín của Truman đã tụt xuống, với tỷ lệ ủng hộ 24% - mức thấp nhất kể từ khi có các cuộc thăm dò dư luận về uy tín của các tổng thống Mỹ. Những cuộc thương thuyết ngừng bắn được bắt đầu vào tháng 7/1951. Cuối cùng, cả hai bên đã đạt được thỏa thuận vào tháng 7/1953 trong nhiệm kỳ đầu của Dwight Eisenhower, tổng thống kế nhiệm Truman.
Những xung đột trong Chiến tranh Lạnh cũng xảy ra ở Trung Đông. Tầm quan trọng chiến lược của khu vực này với tư cách là một nguồn cung cấp dầu mỏ đã khiến Hoa Kỳ tìm mọi cách đẩy các đơn vị quân đội Xô-viết ra khỏi Iran năm 1946. Hai năm sau đó, Hoa Kỳ chính thức thừa nhận nhà nước Israel chỉ 15 phút sau khi nước này tuyên bố thành lập - một quyết định mà Truman đã đưa ra bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ phía Marshall và Bộ Ngoại giao. Kết quả là một tình huống khó xử kéo dài đã xảy ra - làm thế nào để duy trì quan hệ với Israel, đồng thời, vẫn phải giữ được mối bang giao tốt đẹp với các quốc gia Arập chống Israel (nhưng lại có nhiều dầu mỏ).
EISENHOWER VÀ CHIẾN TRANH LẠNH
Năm 1953, Dwight D. Eisenhower đã trở thành vị Tổng thống Đảng Cộng hòa đầu tiên trong 20 năm. Là anh hùng thời chiến hơn là một chính khách chuyên nghiệp, ông có một tác phong tự nhiên, thân mật khiến cho ông rất được lòng dân. "Tôi thích Ike" là khẩu hiệu trong chiến dịch tranh cử thời đó. Sau khi là Tổng Tư lệnh tối cao của quân Đồng minh tại mặt trận Tây Âu trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Eisenhower đã là người phụ trách quân đội, Chủ tịch trường Đại học Columbia, và sau đó là lãnh đạo quân sự của khối NATO trước khi làm ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa. Là người có kỹ năng thu hút mọi người cùng làm việc, ông đã hoạt động như một nhà hùng biện trước công chúng và một nhà quản lý, và ở mức độ nào đó không tham gia vào quá trình hoạch định chính sách một cách chi tiết.
Bất chấp những bất đồng về một số chi tiết, ông vẫn có chung quan điểm cơ bản với tổng thống tiền nhiệm Truman về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Eisenhower cũng nhận thức được rằng chủ nghĩa cộng sản là một lực lượng vững chắc đang đấu tranh giành ưu thế trên trường quốc tế. Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên của mình, ông tuyên bố "Những sức mạnh của cái thiện và cái ác đang tập trung vũ trang và đối lập nhau gay gắt nhất trong lịch sử. Tự do đang chống lại ách nô lệ, cũng như ánh sáng chống lại bóng tối".
Vị Tổng thống mới Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles đã chỉ rõ rằng Chính sách Ngăn chặn chưa được triển khai đầy đủ nhằm ngăn ngừa sự bành trướng của Liên Xô. Cần phải có một chính sách tự do tích cực hơn nữa để giải phóng các dân tộc đang bị cộng sản khống chế. Song, mặc dù có những lời lẽ hùng biện hoa mỹ, khi các cuộc khởi nghĩa dân chủ bùng nổ ở Hungari năm 1956, thì Hoa Kỳ lại đứng ngoài cuộc trong khi quân đội Liên Xô lại có mặt ở cuộc chính biến ấy.
Cam kết cơ bản của Eisenhwer nhằm kiềm chế chủ nghĩa cộng sản vẫn không thay đổi, và để thực hiện điều này, ông đã tăng cường sự trông cậy của nước Mỹ vào lá chắn hạt nhân. Mỹ đã tạo ra những quả bom nguyên tử đầu tiên. Năm 1950, Truman đã cho phép chế tạo một quả bom khí hydro mới có sức công phá mạnh hơn. Lúc này, lo sợ rằng các khoản chi cho quốc phòng có thể vượt quá khả năng kiểm soát, Eisenhower đã phản đối lại chính sách NSC-68 của Truman dùng một khoản chi lớn để xây dựng quân đội. Như cái mà Dulles đã gọi là "Trả đũa ồ ạt", Chính quyền Eisenhower đã tỏ ý rằng mình sẽ sử dụng các vũ khí nguyên tử nếu nước Mỹ và những quyền lợi sống còn của nó bị đe doạ.
Tuy nhiên trên thực tế, khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân chỉ có thể được cho phép trong những trường hợp chống lại những cuộc tấn công rất quan trọng. Nói chung, những đe dọa thực sự từ phe cộng sản đều không mang tính trực tiếp. Eisenhower phản đối tất cả những đề nghị sử dụng vũ khí hạt nhân ở Đông Dương nơi quân Pháp bị các lực lượng Cộng sản Việt Nam đánh bại vào năm 1954. Năm 1956, quân đội Anh, Pháp tấn công Ai Cập, sau khi nước này tiến hành quốc hữu hóa kênh đào Suez và Israel xâm chiếm Sinai của Ai Cập. Tổng thống đã gây áp lực mạnh buộc quân đội của cả ba quốc gia này rút khỏi các khu vực chiếm đóng. Tuy nhiên, việc Mỹ đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân có thể đã được Chính phủ Cộng sản Trung Quốc coi là vấn đề nghiêm túc, nên họ đã không những không tấn công Đài Loan, mà còn không chiếm đóng những hòn đảo nhỏ bé ngay gần đại lục do Quốc Dân Đảng đang cai quản. Lời đe dọa sử dụng vũ khí nguyên tử cũng đã khiến Liên Xô không dám đưa quân tới Berlin, một vấn đề ngày càng trở nên nhức nhối trong hai năm cuối cùng trong nhiệm kỳ tổng thống của Eisenhower.
CHIẾN TRANH LẠNH TẠI NƯỚC MỸ
Chiến tranh Lạnh không chỉ định hình cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, mà còn gây ảnh hưởng lớn lao tới mọi sự kiện trong nước Mỹ. Đã từ lâu, người Mỹ lo sợ phái cấp tiến sẽ lật đổ chế độ. Những nỗi lo sợ này đôi khi đã bị lợi dụng thái quá để biện minh cho những hạn chế chính trị lẽ ra không thể chấp nhận được trong hoàn cảnh bình thường. Nhưng sự thật là các cá nhân thuộc Đảng Cộng sản và nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản đã giành sự ủng hộ chính trị của họ không phải cho Mỹ mà là cho phong trào cộng sản quốc tế, cụ thể là cho Matx-cơ-va. Trong thời kỳ Nỗi sợ Cộng sản vào những năm 1919 - 1920, Chính phủ Mỹ đã cố gắng loại trừ mối đe dọa đối với xã hội Mỹ. Những nỗ lực thậm chí còn mạnh mẽ hơn đã được thực thi sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai để triệt bỏ tận gốc chủ nghĩa cộng sản trong lòng nước Mỹ. Các sự kiện quốc tế, các vụ bê bối chính trị và những vụ tai tiếng về hoạt động gián điệp đã dấy lên một phong trào chống Cộng trên diện rộng.
Khi Đảng Cộng hòa thắng thế trong cuộc bầu cử quốc hội giữa nhiệm kỳ vào năm 1946 và sẵn sàng tiến hành điều tra hoạt động lật đổ chính phủ, Tổng thống Truman đã khởi xướng Chương trình Lòng trung thành của viên chức Liên bang. Chương trình này không có mấy ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của các công dân, nhưng đã có khoảng 100 viên chức liên bang bị cách chức, trong số đó, có những người bị cách chức một cách bất công.
Năm 1947, ủy ban Hoạt động phi Mỹ của Hạ viện đã điều tra ngành công nghiệp điện ảnh để xác định xem các tư tưởng cộng sản có được phản ánh trong những bộ phim nổi tiếng hay không. Khi một số nhà viết kịch bản (tình cờ họ lại là đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản) không chịu để bị kiểm tra, họ liền bị gọi ra hầu tòa và bị tống ngục. Sau sự kiện đó, các công ty điện ảnh đã từ chối không tuyển dụng bất cứ ai có một quá khứ đáng ngờ, dù chỉ là chút ít.
Năm 1948, Alger Hiss, người từng làm trợ lý Ngoại trưởng và Cố vấn cho cố Tổng thống Roosevelt ở Yalta đã bị Whitaker Chambers, cựu tình báo Liên Xô, buộc tội là gián điệp cho phe cộng sản. Hiss đã phủ nhận sự buộc tội đó, nhưng vào năm 1950, những chứng cứ tìm được sau đó đã cho thấy là đúng.
Năm 1949, Liên Xô đã cho thử quả bom nguyên tử của mình, một vụ nổ đã làm cho người Mỹ choáng váng. Vào năm 1950, chính phủ đã phát hiện ra một mạng lưới gián điệp Anh-Mỹ đã chuyển cho Liên Xô những tài liệu về chế tạo bom nguyên tử. Hai người hoạt động trong mạng lưới này là Julius Rosenberg và vợ của ông là Ethel đã bị kết án tử hình. Tổng Chưởng lý J. Howard McGrath đã tuyên bố rằng có rất nhiều người Mỹ theo cộng sản, và mỗi người trong số họ đều mang theo mình những vi trùng chết người cho xã hội".
Người mang tư tưởng chống cộng gay gắt nhất là Thượng nghị sỹ Joseph R. Mc Carthy, đại biểu của Đảng Cộng hòa, bang Wisconsin. Ông này đã giành được sự chú ý của nước Mỹ vào năm 1950, sau lời tuyên bố rằng ông đang nắm trong tay một bản danh sách 205 đảng viên cộng sản nổi tiếng đang làm việc trong Bộ Ngoại giao. Tuy sau đó McCarthy đã vài lần thay đổi con số này và thất bại trong việc chứng minh bất cứ người nào trong danh sách đó là đảng viên cộng sản, song ông cũng đã đánh động được phản ứng của công chúng.
McCarthy đã giành được quyền lực khi Đảng Cộng hòa chiếm quyền kiểm soát Thượng viện năm 1952. Với tư cách là Chủ tịch ủy ban Thượng viện, Carthy đã có diễn đàn cho những tư tưởng chống cộng của mình. Dựa vào việc đưa tin rộng rãi trên báo chí và truyền hình, ông tiếp tục kết án các quan chức cao cấp trong chính quyền Eisenhower về tội phản bội. Ham mê vai trò của một kẻ hành động không thương xót, làm những công việc bẩn thỉu nhưng cần thiết, ông tiếp tục tích cực truy quét những kẻ mà ông coi là cộng sản.
McCarthy đã vượt quá giới hạn trách nhiệm của bản thân mình khi ông kiện quân đội Hoa Kỳ vì một trong những trợ lý của ông bị cưỡng bách quân dịch. Truyền hình đã truyền đi những phiên xử ở tòa án tới hàng triệu gia đình. Nhiều người Mỹ lần đầu tiên đã tận mắt nhìn thấy cách cư xử hung hãn của McCarthy, và sự ủng hộ của công chúng đối với ông bắt đầu suy giảm. Đảng Cộng hòa, trước kia đánh giá Carthy là hữu dụng cho việc thách thức Đảng Dân Chủ dưới thời Tổng thống Truman, nay lại coi ông như một điều hổ thẹn. Cuối cùng, Thượng viện đã lên án ông vì tư cách đạo đức.
Về nhiều mặt, McCarthy là đại diện cho những chính sách đối nội tồi tệ nhất của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Khi người dân Mỹ đã bác bỏ cách nhìn nhận của ông, thì cũng là lẽ tự nhiên khi họ cho rằng mối đe dọa Cộng sản bên trong và bên ngoài nước Mỹ đã bị thổi phồng quá mức. Vào thời điểm nước Mỹ đang chuyển mình bước sang những năm 1960, những người có tư tưởng chống cộng ngày càng trở nên hoài nghi hơn, đặc biệt là giới trí thức và những người có ảnh hưởng sâu rộng đến quan điểm của công chúng.
NỀN KINH TẾ MỸ THỜI HẬU CHIẾN: 1945-1960
Trong thời gian 15 năm sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Hoa Kỳ đã có sự tăng trưởng kinh tế phi thường và củng cố được vị thế của mình với tư cách là quốc gia giàu có nhất thế giới. Tổng thu nhập quốc dân (GNP), đơn vị đo lường toàn bộ hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ở Hoa Kỳ đã nhảy vọt từ 200 tỉ đô-la năm 1940 lên 300 tỉ đô-la năm 1950 và 500 tỉ đô-la năm 1960. Ngày càng có nhiều người Mỹ tự coi mình thuộc tầng lớp trung lưu.
Sự tăng trưởng này bắt nguồn từ các nguyên nhân khác nhau. Động lực kinh tế từ những khoản chi tiêu lớn của Chính phủ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai là cú hích đầu tiên cho sự tăng trưởng này. Hai nhu cầu cơ bản của tầng lớp trung lưu đã góp phần đáng kể vào việc duy trì sự tăng trưởng đó. Số lượng ôtô được sản xuất hàng năm đã tăng lên gấp bốn lần từ năm 1946 tới năm 1955. Việc bùng nổ trong xây dựng nhà cửa được kích thích phần nào nhờ những khoản vay mua nhà thế chấp có thể trả được dễ dàng dành cho các quân nhân giải ngũ, đã kích thích nền kinh tế phát triển. Sự gia tăng chi tiêu cho quốc phòng vì Chiến tranh Lạnh leo thang cũng đóng một vai trò nhất định trong phát triển kinh tế.
Sau năm 1945, các công ty chủ chốt ở Mỹ đã phát triển mạnh mẽ với quy mô thậm chí còn lớn hơn trước. Trước đây, đã xuất hiện những làn sóng hợp nhất các công ty thương mại vào những năm 1890 và 1920, và một làn sóng tương tự cũng đã diễn ra vào thập niên 1950. Các công ty nhượng quyền kinh doanh như những nhà hàng ăn nhanh của McDonald's đã cho phép các doanh nhân nhỏ trở thành chi nhánh của những doanh nghiệp lớn, hoạt động có hiệu quả. Các công ty lớn của Mỹ cũng phát triển các chi nhánh ở nước ngoài nơi thường có chi phí lao động thấp hơn.
Người lao động thấy cuộc sống của họ cũng đang thay đổi cùng với sự thay đổi của một nước Mỹ được công nghiệp hóa. Càng ngày càng có ít người tham gia sản xuất hàng hóa, và càng có nhiều người tham gia vào các ngành dịch vụ. Ngay từ năm 1956, phần lớn những người lao động Mỹ đều tìm được những công việc trí óc như quản lý, giáo viên, bán hàng và nhân viên văn phòng. Một số công ty đã bảo đảm cho người lao động một khoản tiền lương ổn định hàng năm, ký hợp đồng dài hạn với người lao động, cùng với các hình thức phúc lợi khác. Cùng với những thay đổi này, những người lao động không còn phải đấu tranh đòi quyền lợi nữa và sự phân hóa giữa các tầng lớp cũng bắt đầu mờ nhạt dần.
Trong nông nghiệp, các chủ nông trại, ít nhất cũng là các chủ trại nhỏ, lại phải đối mặt với một thời buổi gian nan. Năng suất tăng lên đã dẫn tới sự hợp nhất trong nông nghiệp và nghề nông trở thành một nghề kinh doanh lớn. Số chủ trại rời bỏ đất đai ngày càng nhiều hơn.
Những người Mỹ khác cũng di cư. Miền Tây và miền Tây Nam đang phát triển nhanh chóng - xu thế này tiếp diễn cho đến cuối thế kỷ. Các đô thị vùng SunBelt như Houston, bang Texas; Miami, bang Florida; Albuquerque, bang Mexico; Tucson và Phoenix, bang Arizona được mở rộng rất mau chóng. Thành phố Los Angeles của bang California đã phát triển vượt Philadelphia, Pennsylvania, trở thành thành phố lớn thứ ba nước Mỹ, và sau đó còn vượt cả Chicago, thủ phủ của khu vực Trung Tây. Cuộc điều tra dân số năm 1970 cho thấy California đã thay thế vị trí của bang New York, trở thành bang lớn nhất Hoa Kỳ. Đến năm 2000, Texas đã vượt lên trên NewYork và chiếm vị trí thứ hai.
Một hình thái di cư còn quan trọng hơn đã khiến người Mỹ rời khỏi các khu vực nội thị tới các vùng ngoại ô mới nơi họ hy vọng tìm được nhà ở với giá cả phải chăng cho những gia đình lớn đã trở nên đông đúc do sự bùng nổ sinh con thời hậu chiến. Những nhà thầu xây dựng như William J. Levitt đã xây dựng những cộng đồng dân cư mới - với những căn nhà trông giống hệt nhau - bằng cách sử dụng kỹ thuật xây dựng hàng loạt. Những ngôi nhà của Levitt được chế tạo sẵn - một phần được lắp ghép tại nhà máy chứ không lắp tại công trường. Các ngôi nhà này trông rất bình dân nhưng phương pháp của Levitt đã làm giảm giá thành và cho phép những chủ nhân mới được sở hữu một phần giấc mơ của người Mỹ.
Vì các khu ngoại ô phát triển mạnh nên các doanh nghiệp đã chuyển tới các khu vực mới. Những trung tâm mua bán lớn hơn bao gồm đủ các loại cửa hàng khác nhau đã làm thay đổi phương thức mua sắm của người tiêu dùng. Con số những trung tâm mua sắm này đã gia tăng từ tám trung tâm vào cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai lên tới 3.840 trung tâm vào năm 1960. Với các bãi đỗ xe thuận tiện và thời gian bán hàng tiện lợi vào buổi tối, khách hàng hoàn toàn có thể tránh được việc chạy đi mua bán trong thành phố bận rộn như trước kia.
Các xa lộ mới khiến giao thông tới các khu ngoại ô và những cửa hàng lớn trở nên dễ dàng hơn. Đạo luật Đường Cao tốc năm 1956 đã cung cấp 26.000 triệu đô la, một khoản chi tiêu dành cho các công trình công cộng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ, để xây dựng hơn 64.000km đường liên bang, nối kết tất cả các khu vực trên khắp đất nước.
Truyền hình cũng có một ảnh hưởng mạnh mẽ tới các mô thức hoạt động kinh tế và xã hội. Tuy đã ra đời từ thập niên 1930, nhưng chỉ sau chiến tranh, máy thu hình mới được bày bán rộng rãi. Vào năm 1946, cả nước chỉ có dưới 17.000 máy thu hình. Ba năm sau, người tiêu dùng đã mua 250.000 chiếc trong một tháng, và cho tới năm 1960, ba phần tư các hộ gia đình đã có ít nhất một chiếc máy thu hình. Vào giữa thập niên 1960, một gia đình bình thường xem truyền hình từ bốn đến năm tiếng một ngày. Những chương trình phổ biến cho trẻ em bao gồm Howdy Doody Time và The Mickey Mouse Club; người lớn thì thích những vở hài kịch nhiều tập như I love Lucy và Father Knows Best. Người Mỹ thuộc tất cả các lứa tuổi đã trở thành đối tượng của các chương trình quảng cáo được thiết kế ngày càng tinh vi, công phu hơn, giới thiệu những sản phẩm mà người ta nói là cần thiết cho một cuộc sống tốt đẹp.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CÔNG BẰNG
Chính sách kinh tế công bằng (The Fair Deal) là tên của chương trình quốc nội của Harry Truman. Khi xây dựng kế hoạch này dựa trên Chính sách kinh tế mới của Tổng thống tiền nhiệm Roosevelt, Truman cho rằng, Chính phủ Liên bang nên đảm bảo cơ hội kinh tế và sự ổn định xã hội. Ông đã tranh đấu nhằm đạt được các mục tiêu đó, bất chấp sự chống đối dữ dội về chính trị từ những nhà lập pháp bảo thủ đang cương quyết hạ thấp vai trò của chính phủ.
Ưu tiên thứ nhất của Truman trong giai đoạn ngay sau khi chiến tranh chấm dứt là thực hiện bước quá độ sang nền kinh tế thời bình. Các quân nhân muốn nhanh chóng trở về quê hương, nhưng khi về đến nhà, họ phải đối mặt với việc mất nhà cửa và việc làm. Dự luật G.I. được thông qua trước khi chiến tranh kết thúc đã giúp các quân nhân dễ dàng hòa nhập với đời sống dân sự, thông qua việc cung cấp các khoản phúc lợi như: các khoản tiền cho vay có bảo đảm để mua nhà ở, trợ giúp cho việc đào tạo nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Điều gây lo lắng hơn là sự bất ổn trong tầng lớp lao động. Vì nền sản xuất phục vụ chiến tranh đã chấm dứt nên nhiều công nhân lâm vào tình trạng thất nghiệp. Những người khác muốn được tăng lương, một sự tăng lương mà họ cảm thấy đã phải chờ đợi quá lâu. Vào năm 1946, 4, 6 triệu công nhân đã bãi công - một con số lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Họ thách thức các ngành công nghiệp ôtô, thép và điện lực. Khi họ tiếp tục bãi công ở các tuyến đường sắt và các mỏ than mềm, thì Truman đã phải can thiệp để ngăn chặn sự đòi hỏi thái quá của các công đoàn, nhưng điều đó chỉ làm cho nhiều người lao động thêm xa lánh ông mà thôi.
Trong khi phải giải quyết những vấn đề rất cấp bách, Truman cũng đưa ra một nghị trình hành động toàn diện hơn. Chưa đầy một tuần sau khi chiến tranh chấm dứt, ông đã trình lên Quốc hội một chương trình 21 điểm, nhằm đấu tranh chống lại những hiện tượng thuê nhân công bất bình đẳng, đòi một mức lương tối thiểu cao hơn, các khoản tiền bồi thường thất nghiệp lớn hơn và trợ giúp nhà cửa nhiều hơn. Sau đó vài tháng, ông đã bổ sung các khoản đề nghị khác về bảo hiểm y tế và luật năng lượng nguyên tử. Nhưng cách tiếp cận rời rạc này đã khiến cho những ưu tiên của Truman trở nên không rõ ràng.
Đảng Cộng hòa nhanh chóng tấn công. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1946, họ hỏi "Chúng ta đã thấy chán ngấy chưa?" và các cử tri đáp lại rằng họ đã quá chán. Chiếm đa số trong cả hai Viện của Quốc hội, lần đầu tiên từ năm 1928, Đảng Cộng hòa đã quyết tâm xoay ngược xu hướng tự do như của những năm dưới thời Roosevelt.
Truman đã tranh đấu với Quốc hội vì Quốc hội đã cắt giảm chi tiêu và giảm thuế. Vào năm 1948, ông vẫn thử tái ứng cử mặc dù các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng ông ít có cơ hội thắng cử. Sau một chiến dịch tranh cử mạnh mẽ, Truman đã thắng điểm, một trong những kết quả gây bất ngờ lớn trong nền chính trị Mỹ khi ông đánh bại ứng cử viên Đảng Cộng hòa, Thomas Dewey, thống đốc bang New York. Bằng cách làm hồi sinh tinh thần Liên minh đoàn kết của Chính sách kinh tế mới trước đây, Truman đã tranh thủ được các cử tri thuộc tầng lớp lao động, giới chủ nông trại và người Mỹ gốc Phi.
Khi Truman mãn nhiệm vào năm 1953, Chính sách Kinh tế Công bằng của ông có đạt được một số thành công. Tháng 7/1948, ông đã cấm nạn phân biệt chủng tộc trong quy trình tuyển dụng cán bộ của Chính phủ Liên bang và ra lệnh chấm dứt nạn chia rẽ sắc tộc trong quân đội. Mức tiền lương tối thiểu được gia tăng và các chương trình an ninh xã hội được mở rộng. Chương trình nhà ở đã mang lại nhiều lợi ích nhưng vẫn còn nhiều gia đình có nhu cầu chưa được đáp ứng. Bảo hiểm y tế quốc gia, các biện pháp trợ giúp giáo dục, trợ cấp nông nghiệp và chương trình ban hành đạo luật quyền dân sự của ông chưa được Quốc hội thông qua. Mối bận tâm của Truman về các vấn đề của Chiến tranh Lạnh là mục tiêu quan trọng nhất của ông, đã khiến ông đặc biệt khó khăn trong việc giành được sự ủng hộ đối với cách thức cải cách xã hội trong hoàn cảnh bị phản đối kịch liệt.
CÁCH TIẾP CẬN CỦA EISENHOWER
Khi kế nhiệm Truman, Dwight Eisenhower đã đồng ý về căn bản với khung trách nhiệm của Chính phủ do Chính sách kinh tế mới xác lập nên, nhưng ông cố gắng giữ một giới hạn nhất định đối với các chương trình và các khoản chi tiêu. Ông gọi đó là Chủ nghĩa bảo thủ năng động hay là Chủ nghĩa cộng hòa cấp tiến. Có nghĩa là, theo ông giải thích, các chương trình này mang tính bảo thủ khi nó liên quan tới tiền bạc, mang tính tự do khi nó liên quan tới con người. Có những chỉ trích cho rằng Eisenhower đã mạnh mẽ lên tiếng khuyến nghị xây dựng thật nhiều trường học... nhưng lại không chịu bỏ tiền ra.
Ưu tiên thứ nhất của Eisenhower là làm cân bằng ngân sách sau nhiều năm thâm hụt. Ông muốn cắt giảm chi tiêu, cắt giảm thuế và duy trì giá trị của đồng đô-la. Đảng Cộng hòa tỏ ra sẵn sàng liều lĩnh phó mặc nạn thất nghiệp để kiểm soát được nạn lạm phát. Do không muốn kích thích phát triển kinh tế quá mức, cho nên họ đã phải chứng kiến nước Mỹ ba lần đã phải trải qua suy thoái trong vòng tám năm dưới thời Eisenhower, nhưng không đợt suy thoái nào xảy ra quá trầm trọng.
Trong những lĩnh vực khác, Chính phủ Liên bang đã trao quyền kiểm soát các khu khai thác dầu mỏ ngoài khơi của Chính quyền Liên bang cho các bang. Chính phủ cũng ủng hộ việc phát triển các công ty năng lượng tư nhân chứ không bắt buộc phải theo quan điểm công cộng mà phái Dân chủ đã đề xướng. Nói chung, thiên hướng của Chính phủ là ủng hộ giới doanh nghiệp.
So với Truman, Eisenhower chỉ có một chương trình quốc nội khiêm tốn. Mỗi khi ông hăng hái vận động xây dựng một đạo luật mới, thì dường như điều đó lại làm cho tính kế thừa của Chính sách kinh tế mới giảm đi đôi chút - chẳng hạn như vấn đề giảm trợ cấp nông nghiệp hay vấn đề hạn chế phần nào hoạt động của các nghiệp đoàn. Việc ông không thúc đẩy những thay đổi căn bản theo một hướng cụ thể nào đã tương thích với tinh thần của những năm 50 giàu có. Ông là một trong số rất ít những vị tổng thống Mỹ vẫn còn được lòng dân khi chấm dứt nhiệm kỳ của mình.
VĂN HÓA MỸ THẬP NIÊN 1950
Trong suốt thập niên 1950, nhiều sự kiện văn hóa đã chứng tỏ rằng tư tưởng đồng nhất đã thâm nhập khắp xã hội Mỹ. Tính tuân theo chuẩn mực là rất phổ biến. Mặc dù cả nam giới lẫn phụ nữ đều buộc phải theo những mô thức nghề nghiệp trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, nhưng khi chiến tranh kết thúc, thì vai trò truyền thống liền được phục hồi. Đàn ông là chủ gia đình, còn phụ nữ thì coi vị trí thích hợp nhất của mình là tề gia nội trợ, thậm chí cả khi họ là người làm công ăn lương. Trong cuốn sách gây ảnh hưởng mạnh của mình - cuốn Đám đông cô đơn - nhà xã hội học David Riesman đã gọi xã hội mới này là một xã hội bị ảnh hưởng bên ngoài chi phối, mà đặc trưng của nó là tính tuân theo chuẩn mực, nhưng đồng thời cũng có tính bình ổn. Truyền hình, vẫn còn có ít các chương trình để lựa chọn, cũng đã đóng góp vào xu hướng đồng hóa văn hóa này thông qua việc cung cấp cho thanh niên và người già những khuôn mẫu xã hội chung dễ được chấp nhận.
Nhưng không phải tất cả những người Mỹ đều thích ứng với những chuẩn mực văn hóa này. Nhiều nhà văn, những thành viên của Thế hệ lập dị đã phản kháng những giá trị quy ước, thách thức các tôn ti trật tự đang được tôn trọng và do đó gây ra một cú sốc về văn hóa. Nhấn mạnh vào tính tự phát và tâm linh, họ thích dùng trực giác hơn là lý trí, thuyết thần bí phương đông hơn là tôn giáo kinh viện của phương Tây.
Các tác phẩm văn chương của họ đã diễn tả cảm xúc về sự cách biệt và nhu cầu được công nhận bản thân. Jack Keronac đã đánh máy cuốn tiểu thuyết ăn khách nhất của ông, cuốn Trên đường, trên một băng giấy dài 75 mét. Bằng thủ pháp bỏ dấu chấm câu và không tuân theo quy tắc chung về cấu trúc đoạn văn, cuốn sách ca ngợi cuộc sống tự do. Nhà thơ Allen Ginsberg cũng trở nên nổi tiếng nhờ bài thơ Tiếng gào rú - một tác phẩm phê phán cay độc nền văn minh hiện đại được cơ khí hóa. Khi cảnh sát buộc tội tác phẩm này là suy đồi và tịch thu các bản in đã phát hành, Ginsberg đã đối chất thành công tại tòa án.
Các nhạc sỹ và các họa sỹ cũng nổi loạn. Ca sỹ Elvis Presley, bang Tennessee là người da trắng thành công nhất trong việc phổ biến thứ âm nhạc Mỹ gốc Phi đầy cảm xúc và rộn ràng với tên gọi nhạc Rock and Roll. Trước hết, ca sỹ này đã làm tầng lớp trung lưu Mỹ sửng sốt với kiểu tóc đuôi vịt và cách đánh hông uốn lượn của anh khi biểu diễn. Nhưng một vài năm sau, các buổi biểu diễn của anh đã phần nào ít gây sốc hơn cùng với sự ra đời của những ca sỹ và ban nhạc sau đó, như ban nhạc Rolling Stones của Anh. Tương tự, trong thập niên 50, các họa sỹ như Jackson Pollock đã loại bỏ giá vẽ và xếp đặt các toan vẽ trên sàn, sau đó dùng sơn dầu, cát và những chất liệu khác để tạo thành những vệt màu hoang dại mãnh liệt. Tất cả những họa sỹ và những nhà văn, nhà thơ đó, cho dù họ dùng phương tiện nào đi chăng nữa, thì đều đã đưa ra những mô hình mới cho một cuộc cách mạng xã hội rộng rãi và có ảnh hưởng sâu sắc của thập niên 1960.
NHỮNG CĂN NGUYÊN CỦA PHONG TRÀO ĐÒI QUYỀN CÔNG DÂN
Những năm sau chiến tranh, người Mỹ gốc Phi đã trở thành vấn đề ngày càng căng thẳng. Trong chiến tranh, họ đã đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, tuyển dụng lao động, và họ đã đạt được những thành quả nhất định. Hàng triệu người Mỹ da đen đã rời bỏ các nông trại miền Nam lên các thành phố miền Bắc nơi họ hy vọng sẽ tìm được công ăn việc làm tốt hơn. Thay vì những gì mơ ước, họ chỉ tìm được một chỗ ở chật chội, chen chúc trong các khu nhà ổ chuột tại các đô thị. Giờ đây các quân nhân người Mỹ da đen đã trở về quê nhà, và nhiều người trong số họ kiên quyết không chấp nhận thân phận công dân hạng hai của mình.
Jackie Robinson đã khuấy động vấn đề chủng tộc vào năm 1947, khi anh phá vỡ ranh giới màu da trong bóng chày và bắt đầu chơi cho các giải đấu bóng chày lớn hơn. Khi là thành viên của đội bóng Brooklyn Dodgers, anh thường phải đối mặt với những rắc rối do đối thủ cũng như các cầu thủ cùng đội gây ra. Những mùa thi đấu đầu tiên xuất sắc đã dẫn tới việc người ta phải thừa nhận tài năng của anh và khiến sự nghiệp thi đấu của những cầu thủ da đen khác trở nên dễ dàng hơn. Những cầu thủ này bắt đầu rời khỏi các đội bóng chày của người da đen mà trước kia, họ buộc phải thi đấu ở đó.
Các quan chức chính phủ và nhiều người Mỹ khác đã phát hiện thấy mối quan hệ giữa các vấn đề chủng tộc và các vấn đề chính trị trong Chiến tranh Lạnh. Với tư cách là người lãnh đạo thế giới tự do, Hoa Kỳ đã cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ của châu Phi và châu Á. Nạn phân biệt chủng tộc trong chính nước Mỹ đã làm cản trở những nỗ lực lôi kéo đồng minh ở những khu vực khác trên thế giới.
Harry Truman đã ủng hộ phong trào đòi quyền công dân đầu tiên. Cá nhân ông tin vào quyền bình đẳng về chính trị, tuy ông không tin vào quyền bình đẳng xã hội, và ông đã công nhận tầm quan trọng ngày càng tăng của cử tri người Mỹ gốc Phi ở các đô thị. Năm 1946, khi được thông báo về những vụ hành hình không hề xét xử của đám người phân biệt chủng tộc da trắng đối với người da đen và những hình thức bạo lực chống lại người da đen ở miền Nam, ông đã yêu cầu ủy ban Quyền Công dân có nhiệm vụ điều tra sự kỳ thị chủng tộc và tôn giáo. Bản báo cáo có nhan đề là Để đảm bảo những quyền con người này, được công bố vào năm sau đó, đã minh chứng rõ ràng địa vị hạng hai của người da đen trong đời sống xã hội Mỹ và đã khuyến nghị rất nhiều biện pháp mà Chính phủ Liên bang cần thực hiện nhằm bảo đảm những quyền vốn được dành cho tất cả công dân.
Truman đã phản ứng bằng việc gửi tới Quốc hội một chương trình 10 điểm về quyền công dân. Các thành viên thuộc Đảng Dân chủ miền Nam trong Quốc hội đã cản trở việc thông qua chương trình này. Một số người giận dữ nhất, đứng đầu là Strom Thurmond, Thống đốc bang Nam Carolina, đã thành lập nên Đảng Bang quyền năm 1948 để phản đối Tổng thống. Truman đã cho ban hành một sắc luật cấm kỳ thị chủng tộc trong việc tuyển dụng nhân viên cho các cơ quan Liên bang, ra lệnh đối xử bình đẳng trong các lực lượng vũ trang và yêu cầu một ủy ban có nhiệm vụ chấm dứt nạn chia rẽ sắc tộc trong quân đội. Cuối cùng, nạn phân biệt chủng tộc trong quân đội cũng đã chấm dứt vào thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên.
Trong những năm 1950, người Mỹ da đen ở miền Nam được hưởng rất ít (nếu không nói là không được hưởng) quyền công dân và quyền chính trị. Nhìn chung, họ không có quyền bầu cử. Những người cố gắng ghi tên vào danh sách cử tri đều có thể bị đánh đập, mất việc làm, mất tín nhiệm hoặc bị trục xuất ra khỏi nơi cư trú. Các cuộc hành hình không xét xử vẫn tiếp diễn. Các luật Jim Crow đã thực hiện sự chia rẽ sắc tộc trên ôtô, tàu hoả, khách sạn, nhà hàng, bệnh viện, những cơ sở giải trí và trong công ăn việc làm.
CHẤM DỨT SỰ CHIA RẼ SẮC TỘC
Hiệp hội Quốc gia vì Tiến bộ của Người Da màu (NAACP) đã đi tiên phong trong những nỗ lực lật đổ giáo điều tư pháp đã được thiết lập trong một vụ kiện ở Tòa án Tối cao, vụ Plessy kiện Ferguson năm 1896, trong đó, sự chia rẽ sắc tộc của các học sinh da đen và da trắng ở trường học là hợp hiến nếu cơ sở và phương tiện học tập là riêng biệt nhưng bình đẳng. Phán quyết đó đã được thực thi suốt nhiều thập niên, càng làm nghiêm trọng hơn sự chia rẽ sắc tộc nghiệt ngã ở miền Nam nơi mà những cơ sở và phương tiện rất hiếm khi, nếu không nói là chẳng bao giờ, bình đẳng.
Người Mỹ gốc Phi đã đạt được mục tiêu của họ trong việc lật lại bản án Plessy vào năm 1954 khi Tòa án Tối cao - được chủ trì bởi người do Eisenhower chỉ định - Chánh án Tòa án Tối cao Earl Warren - đưa ra phán quyết của mình trong vụ Brown kiện Hội đồng Giáo dục. Tòa đã nhất trí tuyên bố rằng "Các cơ sở và phương tiện học tập riêng rẽ bản thân nó vốn đã là không bình đẳng và do đó, sắc lệnh giáo điều riêng biệt nhưng bình đẳng sẽ không còn được áp dụng tại các trường công". Một năm sau đó, Tòa án Tối cao yêu cầu các hội đồng trường học ở địa phương phải thực thi quyết định này với nhịp độ khẩn trương.
Mặc dù cảm thông với những nhu cầu của miền Nam khi miền này đang trải qua sự chuyển đổi lớn, song Eisenhower vẫn hành động nhanh chóng để chứng tỏ rằng luật pháp được tuân thủ trước sự phản đối từ phần lớn các bang miền Nam. Eisenhower phải đối mặt với một vụ khủng hoảng lớn ở Litter Rock, bang Arkansas vào năm 1957, khi Thống đốc bang này, Orval Faubus, có ý định cản trở một kế hoạch chấm dứt sự chia rẽ sắc tộc khi kêu gọi việc nhận chín học sinh da đen vào Trường Trung học Trung tâm của thành phố vốn trước đây chỉ dành cho học sinh da trắng. Sau khi nỗ lực đàm phán không có kết quả, Tổng thống Eisenhower đã cử quân đội liên bang xuống Little Rock để cưỡng chế thực thi kế hoạch này.
Thống đốc Faubus đã đáp trả bằng cách ra lệnh đóng cửa các trường trung học ở Little Rock trong năm học 1958-1959. Tuy nhiên, một tòa án liên bang đã ra lệnh mở cửa lại các ngôi trường này vào năm sau đó. Các trường học đã mở cửa nhưng không khí rất căng thẳng, với một số rất ít các học sinh Mỹ gốc Phi. Vì thế, quá trình bãi bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong trường học đã diễn ra rất chậm chạp và không triệt để tại hầu hết các bang miền Nam.
Một dấu mốc quan trọng khác trong phong trào đòi quyền công dân diễn ra vào năm 1955 ở Montgomery, bang Alabana. Rosa Park, một nữ thợ may người Mỹ gốc Phi 42 tuổi, đồng thời là thư ký phân ban Hiệp hội Quốc gia vì Tiến bộ của người da màu (NAACP), ngồi trên ghế trước của một chiếc xe buýt công cộng. Hàng ghế trước, theo luật và theo tập quán, vốn là dành cho người da trắng. Khi bị ra lệnh phải ngồi ở phía sau xe, chị đã từ chối. Cảnh sát đã tới và bắt giam chị vì tội vi phạm các đạo luật phân chia sắc tộc. Các thủ lĩnh người Mỹ gốc Phi, vốn đang chờ một vụ việc như vậy, liền tổ chức tẩy chay hệ thống xe buýt.
Martin Luther King Jr, một mục sư trẻ thuộc giáo hội Baptist nơi những người Mỹ gốc Phi thường gặp gỡ nhau, trở thành người phát ngôn cho phong trào phản đối đó. Ông nói "Đã đến lúc con người ta đã chán ngấy... vì bị hành hạ và bị đối xử thô bạo bởi những bàn chân tàn ác của nạn áp bức". Luther King bị bắt giam và sau đó ông còn bị bắt nhiều lần nữa, thậm chí một quả bom đã phá hủy mặt trước ngôi nhà của ông, nhưng những người Mỹ gốc Phi ở Montgomery vẫn tiếp tục tẩy chay không đi xe buýt. Chừng một năm sau đó, Tòa án Tối cao đã ra quyết định khẳng định rằng việc chia rẽ sắc tộc trên xe buýt cũng như việc phân chia sắc tộc ở trường học là trái với hiến pháp. Cuộc tẩy chay kết thúc, phong trào đòi quyền công dân đã giành được một thắng lợi quan trọng và phát hiện được một thủ lĩnh mạnh mẽ, thông thái và đầy tư chất hùng biện của phong trào, đó là Martin Luther King Jr.
Những người Mỹ gốc Phi cũng nỗ lực giành quyền bầu cử của mình. Mặc dù Điều bổ sung sửa đổi thứ 15 trong Hiến pháp Hoa Kỳ đã đảm bảo quyền bầu cử, nhưng nhiều bang đã tìm cách tránh không thi hành điều luật này. Các bang đã đánh thuế thân hay kiểm tra trình độ biết đọc biết viết - thường khắt khe hơn đối với người Mỹ gốc Phi để ngăn không cho cử tri da đen có trình độ văn hóa thấp đi bỏ phiếu. Khi làm việc với thủ lĩnh phe đa số tại Thượng viện - Lyndon B. Johnson - Eisenhower đã ủng hộ ông này trong nỗ lực của Quốc hội nhằm đảm bảo quyền bầu cử cho các cử tri người Mỹ gốc Phi. Đạo luật Quyền Công dân năm 1957, lần đầu tiên sau 82 năm, đã tạo nên một bước tiến vì đã trao cho Liên bang quyền can thiệp vào những vụ án mà trong đó người da đen bị chối bỏ quyền bầu cử. Tuy vậy, vẫn còn những kẽ hở của luật pháp, và do đó những nhà hoạt động chính trị đã thúc đẩy thành công sự ra đời của Đạo luật Quyền Công dân năm 1960, trong đó, đề ra các mức phạt nghiêm khắc hơn cho những vi phạm về quyền bầu cử. Tuy nhiên, đạo luật này vẫn chưa trao cho các quan chức liên bang quyền được đăng ký danh sách cử tri cho người Mỹ gốc Phi.
Dựa vào những nỗ lực của chính người Mỹ gốc Phi mà phong trào đòi quyền công dân đã phát triển mạnh mẽ vào những năm sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Thông qua Tòa án Tối cao và thông qua Quốc hội, những người ủng hộ quyền công dân đã xây dựng được nền tảng cho một cuộc cách mạng to lớn nhưng hoà bình trong quan hệ sắc tộc của nước Mỹ vào thập niên 1960.
Chương 13: Những thập niên của sự thay đổi 1960-1980
"Tôi mơ ước có một ngày kia, trên những ngọn đồi cháy đỏ bang Georgia, con cái của những người nô lệ và của chủ nô xưa có thể ngồi bên nhau như những người anh em"
Martin Luther King Jr, 1963
Đến năm 1960, nước Mỹ đã sắp sửa chứng kiến sự thay đổi xã hội lớn lao. Xã hội Mỹ luôn là một xã hội cởi mở và linh hoạt hơn bất kỳ một quốc gia nào khác trên thế giới. Tuy nhiên, xã hội Mỹ cho đến thời điểm đó vẫn do người da trắng thống trị. Trong những năm 1960, các nhóm dân cư trước kia không có tiếng nói hoặc bị coi là thuộc tầng lớp dưới đã trở nên mạnh mẽ hơn và đã đạt được thành công trong việc đòi quyền dân sự ở các phong trào như: phong trào của người Mỹ gốc Phi, của người da đỏ, phụ nữ, con cái của các dân tộc da trắng mới nhập cư và người châu Mỹ La-tinh. Phần lớn sự ủng hộ mà họ nhận được đến từ tầng lớp thanh niên đông đảo hơn bao giờ hết, một tầng lớp thanh niên được tiếp cận với hệ thống các trường cao đẳng và đại học đang phát triển với tốc độ chưa từng có trong lịch sử. Thường đua theo những lối sống phản văn hóa và các hệ tư tưởng chính trị cấp tiến, nhiều con cái của thế hệ Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã nổi lên như những người vận động cho một nước Mỹ mới mà đặc trưng của nó là sự đa văn hóa và đa sắc tộc - một xã hội mà trước đây, ông cha họ thấy khó có thể chấp nhận được.
PHONG TRÀO ĐÒI QUYỀN CÔNG DÂN TỪ 1960 ĐẾN 1980
Cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng của người Mỹ gốc Phi đã đạt được đỉnh cao vào thập niên 1960. Sau những thắng lợi liên tiếp vào thập niên 1950, người Mỹ gốc Phi càng cam kết mạnh mẽ hơn đối với hình thức đấu tranh trực tiếp không dùng bạo lực. Các tổ chức như Hội nghị Quyền lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Nam (SCLC) đã tạo ra tầng lớp tăng lữ người Mỹ gốc Phi và ủy ban Phối hợp Ôn hòa Sinh viên (SNCC) gồm các nhà hoạt động trẻ tuổi là những tổ chức đấu tranh cho cải cách thông qua đối kháng hòa bình.
Năm 1960, các học sinh trung học người Mỹ gốc Phi ngồi tại quầy ăn phân biệt sắc tộc tại trường Woolworth, bang Bắc Carolina và cự tuyệt không chịu dời đi. Cuộc biểu tình của họ đã thu hút sự chú ý của các phương tiện thông tin đại chúng và khởi xướng cho các cuộc biểu tình tương tự khắp các bang miền Nam. Vào năm sau, những người biểu tình đòi quyền công dân đã tổ chức các cuộc diễu hành đòi tự do bằng xe buýt, người da đen và da trắng đều lên những chiếc xe buýt tiến về miền Nam, đi tới những bến xe vẫn còn giữ nguyên thói phân biệt chủng tộc. Ở đó những cuộc biểu tình này có thể thu hút sự quan tâm của các phương tiện thông tin và khiến tình hình phải dần dần thay đổi.
Các đại biểu cũng tổ chức những cuộc họp quan trọng mà sự kiện lớn nhất là Cuộc tuần hành Washington năm 1963. Đã có hơn 200.000 người tập trung tại thủ đô nước Mỹ để biểu thị cam kết của họ về quyền bình đẳng cho tất cả mọi người. Cao trào của một ngày tràn ngập tiếng hát và những bài phát biểu hùng hồn đã đến cùng với bài phát biểu của Martin Luther King Jr., người đã xuất hiện với tư cách là người phát ngôn tiêu biểu cho quyền công dân. "Tôi mơ ước có một ngày trên những ngọn đồi cháy đỏ xứ Georgia, con cái của những nô lệ và những chủ nô xưa có thể ngồi bên nhau bên chiếc bàn của tình huynh đệ" - Luther King tuyên bố. Mỗi khi ông nói đoạn điệp khúc "Tôi có một ước mơ", cả đám đông lại hô to hưởng ứng.
Nhưng sự tiến bộ ban đầu đạt được đã không tương xứng với những lời phát biểu hùng hồn của phong trào đòi quyền công dân. Tổng thống Kennedy ban đầu lưỡng lự không gây sức ép với những người da trắng ở miền Nam phải ủng hộ quyền công dân của người da đen vì ông đang cần những lá phiếu của họ cho những vấn đề khác. Tuy nhiên, các sự kiện mà người Mỹ gốc Phi khởi xướng đã buộc ông phải ra tay. Khi James Meredith bị từ chối không được chấp nhận vào học ở trường Đại học Mississippi vào năm 1962 vì lý do sắc tộc, Kennedy đã phải đưa quân đội liên bang tới vùng này để duy trì luật pháp. Sau những cuộc biểu tình chống nạn phân biệt chủng tộc ở Bermingham, bang Alabama, cảnh sát đã phản ứng bằng bạo lực. Tổng thống đã đệ trình lên Quốc hội một dự luật mới về quyền công dân, chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc ở nơi công cộng. Tuy nhiên, ngay cả cuộc Tuần hành Washington cũng không thể khiến Tiểu ban Quốc hội chịu thông qua. Dự luật đó vẫn còn bị ách lại ở Quốc hội khi Tổng thống Kennedy bị ám sát năm 1963.
Tổng thống Lyndon B. Johnson đã đạt được nhiều thành công hơn. Với kỹ năng đàm phán mà ông đã thường xuyên sử dụng trong những năm ông còn đảm nhận cương vị lãnh đạo phe đa số ở Thượng viện, Johnson đã thuyết phục được Thượng viện hạn chế các chiến thuật ngăn cản việc bỏ phiếu cuối cùng thông qua Đạo luật mang tính bước ngoặt về Quyền Công dân năm 1964. Bộ luật này đã chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc tại nơi công cộng. Đạo luật về Quyền bầu cử một năm sau đó, năm 1965, đã cho phép Chính phủ Liên bang đăng ký cử tri tại những nơi mà trước kia, các quan chức không cho phép cử tri da đen đăng ký bỏ phiếu. Cho đến năm 1968, một triệu người Mỹ gốc Phi đã được đăng ký bầu cử tại các vùng xa xôi tại miền Nam. Năm 1968, Quốc hội đã thông qua luật cấm phân biệt chủng tộc trong cung cấp nhà ở.
Tuy nhiên, khi được giải phóng, cuộc cách mạng đòi quyền công dân đã khiến các thủ lĩnh phong trào trở nên nôn nóng vì tốc độ thay đổi diễn ra chậm chạp và người Mỹ gốc Phi vẫn chưa được hòa nhập hoàn toàn vào xã hội chính thống của người da trắng. Malcolm X., một nhà hoạt động chính trị có tài hùng biện là người tiên phong kêu gọi loại bỏ việc phân biệt người Mỹ gốc Phi khỏi cộng đồng da trắng. Stokely Carmichael, một người lãnh đạo phong trào sinh viên, cũng có những ảo tưởng như vậy về quan điểm không dùng bạo lực và việc hợp tác giữa các chủng tộc. Anh đã khiến cho câu khẩu hiệu quyền của người da đen trở nên nổi tiếng, và phải đạt được bằng mọi giá, theo như lời của Malcolm X.
Bạo lực đã xuất hiện cùng với những lời kêu gọi hiếu chiến về cải cách. Nhiều cuộc bạo loạn đã bùng nổ ở một số đô thị lớn vào năm 1966 và 1967. Vào mùa xuân năm 1968, Martin Luther King Jr. đã ngã xuống dưới viên đạn của một kẻ ám sát. Một vài tháng sau đó, Thượng nghị sỹ Robert Kennedy, người phát ngôn cho những người bị thiệt thòi, một người phản đối cuộc Chiến tranh Việt Nam, anh trai của vị cố tổng thống bị ám hại, cũng cùng chịu chung số phận. Với nhiều người thì hai vụ ám sát này đã đánh dấu sự cáo chung của thời đại ngây thơ và lý tưởng hóa trong cả phong trào đòi quyền công dân lẫn phong trào phản chiến. Tính hiếu chiến ngày càng tăng của cánh tả kết hợp với những phản ứng thái quá của phái bảo thủ đã tạo ra một sự chia rẽ trong tinh thần dân tộc mà người ta đã phải mất nhiều năm mới hàn gắn được.
Tuy nhiên, đến thời điểm đó, một phong trào đòi quyền công dân với sự ủng hộ của những quyết định của tòa án, sự thông qua các đạo luật của quốc hội, và các qui định của chính quyền liên bang, đã đan cài vào trong từng khía cạnh của đời sống xã hội Mỹ, và đây là một xu thế không thể đảo ngược. Các vấn đề quan trọng là thực hiện quyền bình đẳng và sự tiếp cận ngang bằng, chứ không phải là tính hợp pháp của sự phân biệt đối xử hay việc tước quyền bầu cử. Những cuộc tranh luận trong thập niên 1970 và những năm sau đó đều liên quan đến những vấn đề như bắt bọn trẻ phải đi xe buýt ra xa khu vực chúng sống chỉ để có được sự cân bằng về chủng tộc ở các ngôi trường trong thành thị, hay về vấn đề sử dụng các biện pháp khẳng định. Một số người coi các chính sách và chương trình này là những biện pháp tích cực nhằm đảm bảo cơ hội bình đẳng về giáo dục và việc làm, còn một số người khác thì lại coi những chính sách đó vẫn là nạn phân biệt chủng tộc, chỉ có điều theo chiều hướng ngược lại mà thôi.
Tòa án cũng có cách giải quyết vấn đề riêng của mình, thông qua các phán quyết thường không nhất quán. Đồng thời, việc người Mỹ gốc Phi dần dần có mặt trong tầng lớp trung lưu Mỹ và tại các khu ngoại ô yên tĩnh vốn trước đó chỉ thuộc về người da trắng đã lặng lẽ phản ánh một sự thay đổi sâu sắc về nhân khẩu học trong xã hội Mỹ.
PHONG TRÀO PHỤ NỮ
Trong hai thập niên 1950 và 1960, càng ngày càng có nhiều phụ nữ có gia đình tham gia lực lượng lao động, nhưng vào năm 1963, một phụ nữ đi làm chỉ có mức lương trung bình bằng 63% mức lương của một lao động nam giới tương đương. Vào năm đó, tác giả Betty Friedan đã xuất bản cuốn Điều huyền bí của phái nữ, một tác phẩm phê phán gây chấn động, chỉ trích những mô thức sống của tầng lớp trung lưu, mà bà cho là lối sống đó đã khiến cho nhiều phụ nữ cảm thấy không hài lòng. Chỉ ra rằng phụ nữ thường không có cách nào khác để bày tỏ suy nghĩ tình cảm của mình ngoài việc lấy chồng và đẻ con, Friedan đã khuyến khích độc giả tìm kiếm những vai trò và những trách nhiệm mới, và tìm ra bản sắc nghề nghiệp và bản sắc cá nhân, hơn là buông xuôi theo một xã hội do nam giới ngự trị.
Phong trào phụ nữ vào những thập niên 1960 và 1970 đã lấy cảm hứng từ phong trào đòi quyền công dân. Phong trào này chủ yếu bao gồm các thành viên của giai cấp trung lưu, do vậy, đã tiếp nhận phần nào tinh thần nổi loạn của thanh niên thuộc tầng cấp trung lưu trong thập niên 1960.
Các luật về cải cách cũng thúc đẩy sự thay đổi trong xã hội. Trong cuộc tranh luận về dự luật Quyền Công dân năm 1964, phái đối lập hy vọng sẽ làm phá sản hoàn toàn dự luật này bằng cách đề xuất một Điều bổ sung sửa đổi nhằm cấm sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính và chủng tộc. Lúc đầu, điều luật bổ sung này đã được thông qua, sau đó, chính Đạo luật Quyền Công dân đã được thông qua và đem lại cho phụ nữ một công cụ pháp lý giá trị.
Năm 1966, 28 phụ nữ đi làm, trong đó có bà Betty Friedan, đã thành lập Tổ chức Phụ nữ Quốc gia (NOW) để hành động nhằm đưa phụ nữ Mỹ hòa nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội chính yếu của nước Mỹ ngày nay. Mặc dù NOW và các tổ chức phụ nữ tương tự tự hào rằng ngày nay mình đã có một số lượng thành viên đông đảo, ta có thể nói rằng những tổ chức này đã có ảnh hưởng lớn nhất vào đầu thập niên 1970, thời mà nhà báo Gloria Steinem và một số phụ nữ khác đã lập ra tạp chí Ms. Họ cũng thúc đẩy sự ra đời của các nhóm chống bình đẳng nghề nghiệp cho phụ nữ, thường cũng do phụ nữ đứng đầu, bao gồm người vận động chính trị nổi tiếng nhất là Phyllis Schlafly. Các nhóm này ủng hộ vai trò truyền thống của phụ nữ trong gia đình và phản đối Điều bổ sung sửa đổi hiến pháp được đề xuất mang tên Quyền bình đẳng.
Được Quốc hội thông qua năm 1972, Điều bổ sung sửa đổi đó đã tuyên bố rằng Quyền bình đẳng theo luật định sẽ không bị Hoa Kỳ hay bất kỳ bang nào trên đất nước Hoa Kỳ phủ nhận vì lý do giới tính. Trong vài năm sau đó, 35 bang trong số 38 bang đã phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi này. Các tòa án cũng ra tay để mở rộng quyền bình đẳng cho phụ nữ. Năm 1973, trong vụ Roe kiện Wade, Tòa án Tối cao đã thừa nhận phụ nữ có quyền phá thai trong những tháng đầu mang thai. Đây là một trong những thắng lợi quan trọng đối với phong trào phụ nữ, nhưng Roe cũng đã tạo ra một phong trào phản đối việc phá thai của phụ nữ.
Tuy nhiên, vào thời kỳ giữa và cuối thập niên 1970, phong trào phụ nữ dường như đã bị ngưng trệ. Phong trào đã không làm cho những lời kêu gọi của mình đến được với những tầng lớp xã hội khác, ngoài tầng lớp trung lưu. Những chia rẽ và bất đồng đã bắt đầu xuất hiện giữa các phái ôn hòa và cấp tiến. Phái bảo thủ đối lập đã tổ chức một chiến dịch phản đối Điều bổ sung sửa đổi Các quyền bình đẳng trong Hiến pháp, và Điều bổ sung sửa đổi này đã bị hủy bỏ năm 1982 vì không có đủ sự tán thành của 38 bang, một điều kiện cần thiết để được Quốc hội phê chuẩn.
PHONG TRÀO CỦA NGƯỜI MỸ LA-TINH
ở nước Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, người Mỹ gốc Mexico và Puerto Rico cũng phải đương đầu với nạn phân biệt chủng tộc. Những người mới di cư đến từ Cuba, Puerto Rico, Mexico và Trung Mỹ thường không có chuyên môn nghề nghiệp và không nói được tiếng Anh, cũng bị phân biệt đối xử. Một số lao động nói tiếng Tây Ban Nha làm việc ở nông trại và đôi khi bị bóc lột tàn tệ; những người khác thì đổ về các đô thị, và ở đó, cũng giống như những nhóm dân nhập cư trước kia, họ phải đối mặt với những khó khăn khi mưu cầu một cuộc sống dễ chịu hơn.
Tuy nhiên, những người Chicanos, tức là người Mỹ gốc Mexico, được huy động vào các tổ chức như Hiệp hội Quốc gia người Mỹ gốc Mexico, cũng chưa có ý phản kháng cho mãi đến thập niên 1960. Với hy vọng chương trình chống nghèo đói của Lyndon Johnson sẽ mang lại nhiều cơ hội hơn cho họ, người Chicanos đã vô cùng thất vọng khi thấy rằng, giới quan chức đã không đáp ứng được những yêu cầu của các nhóm dân cư thấp cổ bé họng trong xã hội. Đặc biệt, tấm gương về phong trào hoạt động của người da đen đã cho người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha một bài học về tầm quan trọng của sức ép chính trị trong một xã hội đa sắc tộc.
Đạo luật về Quan hệ Lao động Xã hội Quốc gia năm 1935 đã không cho nông dân được quyền tổ chức và thương lượng tập thể. Nhưng Cesar Chavez, người sáng lập Tổ chức Công nhân trong nông nghiệp mà chủ yếu thành viên là những người nói tiếng Tây Ban Nha, đã chứng tỏ rằng hành động đấu tranh trực tiếp là cách tốt nhất để giành được sự công nhận của giới chủ đối với công đoàn của mình. Các chủ trang trại nho ở California đã phải đồng ý thương lượng với công đoàn của anh sau khi Chavez kêu gọi người tiêu dùng trên toàn quốc tẩy chay nho. Những cuộc tẩy chay tương tự đối với rau diếp và các sản phẩm khác cũng đã thành công. Tuy các chủ nông trại đã tìm cách cản trở hoạt động của tổ chức của Chavez, nhưng cơ sở hợp pháp đã được xác lập, cho phép nông dân nhập cư có quyền đòi hỏi những khoản lương cao hơn và các điều kiện lao động tốt hơn thông qua các tổ chức đại diện cho họ.
Người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha cũng đã trở nên tích cực hơn về mặt chính trị. Năm 1961, Henry B.Gonzalez đã thắng cử vào Quốc hội ở bang Texas. Ba năm sau đó, Elizo (“Kika") de la Garza, một người Texas khác đã tiếp bước ông, cùng với Joseph Montoya bang New Mexico trúng cử vào Thượng viện. Sau này, cả Gonzalez và De la Garza đều lên tới chức Chủ tịch ủy ban Thượng viện. Vào hai thập niên 1970 và 1980, nhịp độ hoạt động chính trị của người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha đã gia tăng. Nhiều người đã được bổ nhiệm vào nội các của Tổng thống Bill Clinton và George W. Bush.
PHONG TRÀO CỦA NGƯỜI MỸ DA ĐỎ BẢN ĐỊA
Vào thập niên 1950, thổ dân da đỏ đã đấu tranh chống lại các chính sách của chính phủ yêu cầu họ phải di dời khỏi các vùng đất vốn dành riêng cho người da đỏ và dồn họ vào sống ở các đô thị nơi họ có thể bị đồng hóa về mọi mặt trong đời sống xã hội của nước Mỹ. Người Mỹ da đỏ bản địa bị đẩy khỏi nơi chôn rau cắt rốn đã gặp khó khăn trong việc thích nghi với đời sống thành thị. Năm 1961, khi chính sách này bị đình chỉ, ủy ban Quyền công dân của Hoa Kỳ đã ghi nhận rằng, đối với người Mỹ da đỏ, sự nghèo nàn và tình trạng bị tước đoạt là phổ biến.
Vào các thập niên 1960 và 1970, quan sát thấy sự phát triển của phong trào dân tộc trong thế giới thứ ba và sự tiến bộ của phong trào đòi quyền công dân tại chính nước Mỹ, thổ dân da đỏ đã trở nên ngày càng kiên quyết trong việc đòi hỏi các quyền lợi chính đáng của họ. Một thế hệ lãnh tụ mới đã tới tòa án để bảo vệ những vùng đất đai còn sót lại của bộ lạc hay đòi lại số đất đai đã bị tước đoạt một cách phi pháp trước đây. Họ đã đấu tranh và chỉ ra những vi phạm trong hiệp ước tại hết bang này đến bang khác, và vào năm 1967, đã giành được thắng lợi đầu tiên trong nhiều thắng lợi của mình. Từ đó, họ được đảm bảo đất đai và nguồn nước vốn bị lạm dụng bấy lâu nay. Phong trào người Mỹ da đỏ (AIM) thành lập năm 1968 đã góp phần phân phối các khoản tiền của chính phủ tới các tổ chức do người da đỏ lãnh đạo và trợ giúp cho những người da đỏ bị bỏ rơi và bị coi rẻ tại các đô thị.
Những vụ đối kháng trở nên phổ biến hơn. Năm 1969, một đoàn gồm 78 thổ dân da đỏ đã đổ bộ chiếm đảo Alcatraz tại vịnh San Francisco và chiếm giữ đảo này cho tới khi các quan chức Liên bang chuyển họ ra khỏi đảo năm 1971. Năm 1973, một nhóm người Mỹ da đỏ đã đánh chiếm làng Wounded Knee ở bang Nam Dakota nơi binh lính đã tàn sát các bộ lạc Sioux vào cuối thế kỷ XIX. Những người bạo động hy vọng thu hút sự chú ý của chính phủ về điều kiện sống bần cùng tại các vùng đất dành riêng cho người bản địa xung quanh các thành phố nơi nạn nghiện rượu lan tràn. Sự kiện này đã chấm dứt sau khi một người da đỏ bị giết và một người khác bị thương. Chính phủ đã đồng ý xem xét lại các quyền lợi của người da đỏ đã được quy định trong Hiệp ước.
Song, những hoạt động chính trị tích cực của người da đỏ đã mang lại kết quả. Những người Mỹ khác đã nhận thức rõ hơn về nhu cầu của thổ dân da đỏ. Các quan chức chính phủ đã đáp lại đòi hỏi của họ bằng các biện pháp tích cực, trong đó có Điều luật Hỗ trợ Giáo dục năm 1975 và Điều luật Nhà ở và Đạo luật Quyền tự quyết cho thổ dân da đỏ năm 1996. Thượng nghị sỹ thổ dân da đỏ đầu tiên, Ben Nighthorse Campbell bang Colorado, đã được bầu vào Thượng viện năm 1992.
PHONG TRÀO VĂN HÓA ĐỐI KHÁNG
Sự kích động đòi cơ hội bình đẳng đã làm bùng lên những biến động đột ngột khác. Đặc biệt, thanh niên đã phản đối lối sống của tầng lớp trung lưu mà cha mẹ họ đã tạo ra vào các thập niên sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Một số người đã tham gia vào các hoạt động chính trị cấp tiến; nhiều người khác đã chấp nhận những chuẩn mực mới về trang phục và hành vi tình dục.
Những dấu hiệu rõ rệt của phong trào văn hóa đối nghịch đã lan tỏa khắp xã hội Mỹ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Tóc để dài hơn và mốt để râu trở nên phổ biến. Quần Jean xanh và áo phông đã thế chỗ cho quần tây, áo vét và cà vạt. Việc sử dụng các loại ma túy bất hợp pháp gia tăng. Nhạc Rock and Roll đã phát triển, trở nên hết sức phổ biến và biến thể thành nhiều thể loại âm nhạc khác. Beatles, Rolling Stones cùng những ban nhạc nước Anh khác đã dấy lên một làn sóng say mê trên nước Mỹ. Nhạc Hard Rock trở nên thịnh hành, những ca khúc có lời ca đậm tính chính trị xã hội, như những ca khúc của ca sỹ kiêm nhạc sỹ Bob Dylan được phổ biến khắp nơi. Phong trào văn hóa đối nghịch đạt được cao điểm cực thịnh vào khoảng tháng 8/1969 tại Woodstock, một đại hội tại liên hoan âm nhạc kéo dài ba ngày ở vùng nông thôn bang New York với nửa triệu người tham dự. Đại hội liên hoan vốn được huyền thoại hóa trong phim ảnh và băng đĩa thời kỳ này đã được mệnh danh là thế hệ Woodstock.
Một sự thể hiện tương tự về tính nhạy cảm của giới trẻ là sự ra đời của phái Cánh tả mới, một nhóm thanh niên cấp tiến, tuổi còn đang là sinh viên cao đẳng, đại học. Những kẻ cánh tả mới này, với những đối tác gần gũi ở Tây Âu, thường là con cái của những người thuộc thế hệ cấp tiến trước đây. Tuy nhiên, họ bác bỏ hệ tư tưởng Mác-xít. Thay vào đó, họ coi các sinh viên đại học như họ là tầng lớp bị áp bức, những người có những quan điểm đặc biệt về cuộc đấu tranh của những nhóm người bị áp bức khác trong xã hội Mỹ.
Những người thuộc phái cánh tả mới tham gia các phong trào đòi quyền công dân và đấu tranh chống nghèo đói. Thành công lớn nhất của họ - một sự kiện mà họ đã kêu gọi được sự ủng hộ rộng rãi - là cuộc đấu tranh phản đối Chiến tranh Việt Nam, một vấn đề mà những thanh niên thời thực hiện chế độ quân dịch của họ rất quan tâm. Cuối thập niên 1970, nhóm sinh viên Cánh tả mới đã giải thể, nhưng nhiều nhà hoạt động của tổ chức này vẫn tiếp tục con đường của họ trong đời sống chính trị xã hội Mỹ.
CHỦ NGHĨA MÔI TRƯỜNG
Đã bùng lên phong trào đòi quyền công dân, phong trào văn hóa đối nghịch, và phái Cánh tả mới cũng kích thích sự ra đời của phong trào đấu tranh bảo vệ môi trường vào giữa thập niên 1960. Nhiều người đã được giác ngộ sau khi cuốn sách “Mùa xuân im lặng" của Rachel Carson được xuất bản năm 1962. Cuốn sách này đã cáo buộc rằng các loại thuốc trừ sâu hóa học, đặc biệt là DDT - làm nguyên nhân gây bệnh ung thư và một số căn bệnh nguy hiểm khác. Mối lo ngại của dân chúng về môi trường đã tiếp tục tăng lên trong suốt thập niên 1960 và nhiều người đã nhận thức được về các chất gây ô nhiễm xung quanh họ như: khí thải ôtô, chất thải công nghiệp, các vụ tràn dầu, đều là mối đe dọa đối với sức khoẻ của họ và cảnh quan môi trường xung quanh. Vào ngày 22/4/1970, lần đầu tiên, các trường học và các cộng đồng dân cư trên toàn nước Mỹ đã kỷ niệm Ngày Trái Đất. Các cuộc hội thảo đã giúp người Mỹ hiểu được mối hiểm họa to lớn của ô nhiễm môi trường.
Mặc dù không mấy ai phản đối ô nhiễm là một vấn đề nghiêm trọng, nhưng các giải pháp đề xuất đều tốn kém và chưa tiện lợi. Nhiều người tin rằng những giải pháp này sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế và từ đó khiến mức sống của người Mỹ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, vào năm 1970, Quốc hội đã sửa đổi Điều luật Không khí Sạch năm 1967 nhằm xây dựng những tiêu chuẩn thống nhất trên toàn quốc về chất lượng không khí. Quốc hội cũng thông qua Đạo luật Cải thiện Chất lượng Nước, buộc những người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm dọn sạch những vết dầu loang ngoài khơi. Cũng vào năm 1970, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) đã được thành lập và hoạt động như một cơ quan liên bang độc lập kiểm soát các hành vi vi phạm luật bảo vệ môi trường. Trong suốt ba thập niên sau này, nhờ có luật pháp quy định mà quyền lực của EPA ngày càng được tăng cường, và tổ chức này đã trở thành một trong những cơ quan chính phủ tích cực nhất, chuyên ban hành những quy định về chất lượng không khí và chất lượng nước.
KENNEDY VÀ SỰ TÁI NỔI LÊN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO CÙNG VỚI VAI TRÒ LỚN CỦA CHÍNH PHỦ
Đến năm 1960, Chính phủ trở thành một lực lượng đầy quyền lực trong đời sống dân chúng. Trong cuộc Đại suy thoái những năm 1930, các cơ quan hành pháp mới đã được thành lập để giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống thường ngày của người dân. Trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, số lượng người làm việc cho Chính phủ Liên bang đã tăng từ một triệu người lên 3,8 triệu người, sau đó giữ ở mức ổn định là 2,5 triệu người trong những năm 1950. Chi tiêu của Liên bang là 3.100 triệu đô-la năm 1929, tăng lên 75.000 triệu đô-la năm 1953 và lên tới 150.000 triệu đô la trong những năm 1960.
Đa số người Mỹ đều chấp nhận vai trò ngày càng lớn của Chính phủ, mặc dù lại bất đồng ý kiến trong việc xem xét xem phạm vi quyền lực của chính phủ sẽ được tiếp tục mở rộng đến mức nào trong tương lai. Nhìn chung, phái Dân chủ muốn Chính phủ đảm bảo được tăng trưởng và ổn định. Họ muốn tăng cường hơn nữa các hình thức phúc lợi liên bang về giáo dục, y tế và an sinh. Những người theo Đảng Cộng hòa thì đồng tình với mức trách nhiệm cao của Chính phủ, đồng thời hy vọng hạn chế chi tiêu và khuyến khích các sáng kiến cá nhân. Cuộc bầu cử tổng thống năm 1960 đã phản ánh rất rõ nét sự phân chia tương đối cân bằng giữa hai khuynh hướng trên trong xã hội Mỹ lúc bấy giờ.
John F. Kennedy, người chiến thắng của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1960, 43 tuổi, là người đắc cử tổng thống trẻ nhất trong lịch sử nước Mỹ cho tới thời điểm đó. Trên truyền hình, trong một loạt các cuộc tranh luận với đối thủ của mình là Richard Nixon, ông đã tỏ ra là người có năng lực, có tài biện thuyết, năng nổ và đầy nhiệt huyết. Trong chiến dịch tranh cử, ông đã trình bày rất sôi nổi về kế hoạch chuyển mình của nước Mỹ trong thập niên mới, cho một ranh giới mới đang tồn tại cho dù chúng ta có tìm kiếm nó hay không. Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên của mình, ông đã kết luận bằng một lời kêu gọi đầy thuyết phục: "Bạn đừng hỏi đất nước đã làm được gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn sẽ có thể làm được gì cho đất nước. Trong suốt thời gian ngắn ngủi trên cương vị tổng thống, sự kết hợp đặc biệt giữa sức hút, trí thông minh và phong thái của Kennedy - những điều này còn ấn tượng hơn nhiều so với chương trình lập pháp của ông - đã khiến ông giữ được sự nổi tiếng và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới những thế hệ chính khách kế tiếp.
Kennedy mong muốn tăng cường phúc lợi kinh tế cho tất cả công dân Mỹ, tuy nhiên, thắng lợi quá sít sao trong cuộc tranh cử đã hạn chế quyền lực của ông. Tuy Đảng Dân chủ đã kiểm soát cả hai Viện của Quốc hội, nhưng phe bảo thủ miền Nam thuộc Đảng Dân chủ lại thường về cánh với Đảng Cộng hòa trong các vấn đề liên quan đến mức độ can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế. Họ phản đối các kế hoạch tăng trợ cấp liên bang cho giáo dục, cung cấp bảo hiểm y tế cho người già và thành lập một Bộ mới - Bộ Vấn đề Đô thị. Vì thế, bất chấp tài hùng biện của ông, các chính sách của Kennedy thường bị hạn chế và bị ngăn cản.
Một ưu tiên lớn của Kennedy là tìm cách chấm dứt suy thoái, một xu thế đang diễn ra khi ông lên nhậm chức, và phục hồi tăng trưởng. Nhưng vào năm 1962, khi ông thành công trong việc hạn chế sự tăng giá quá mức trong ngành công nghiệp chế tạo thép, theo nhìn nhận của Chính phủ, thì Kennedy không còn chiếm được lòng tin của giới lãnh đạo doanh nghiệp nữa. Tuy ông đã thành công trong những mục tiêu trước mắt, nhưng ông lại mất dần những nguồn ủng hộ quan trọng. Khi được cố vấn kinh tế của mình thuyết phục là việc cắt giảm mạnh các khoản thuế sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, Kennedy đã đệ trình lên Quốc hội một dự luật về giảm thuế. Tuy nhiên, phái đối lập bảo thủ trong Quốc hội đã dập tắt mọi hy vọng của ông về việc dự luật sẽ được thông qua, vì hầu hết các nghị sỹ trong Quốc hội đều cho rằng một đạo luật như vậy sẽ chỉ làm cho ngân sách bị thâm hụt trầm trọng thêm.
Các cải cách lập pháp của chính quyền Kennedy còn nghèo nàn hơn. Tổng thống đã có một số hành động thiện ý đối với lãnh tụ của các phong trào đòi quyền công dân nhưng không đạt được những mục tiêu của phong trào này cho tới khi Martin Luther King Jr. buộc ông phải ra tay năm 1963. Giống như Truman, Kennedy không thể thuyết phục được Quốc hội thông qua các khoản trợ cấp liên bang cho giáo dục công, chương trình chăm sóc y tế cho người già. Ông chỉ đạt được thành công khiêm tốn trong việc đòi tăng mức lương tối thiểu cho người lao động. Tuy nhiên, ông đã đảm bảo được việc cấp vốn cho chương trình nghiên cứu vũ trụ và đã lập ra các Tổ chức Hòa bình đưa người Mỹ ra nước ngoài để trợ giúp cho các nước đang phát triển và đáp ứng những nhu cầu của họ.
KENNEDY VÀ CHIẾN TRANH LẠNH
Tổng thống Kennedy nhậm chức đã cam kết sẽ tiếp tục cuộc Chiến tranh Lạnh một cách mạnh mẽ, nhưng ông cũng hy vọng sẽ có sự thỏa hiệp và đã chần chừ trong việc tăng cường sức mạnh và quyền lực của nước Mỹ trên trường quốc tế. Trong một năm rưỡi đầu tiên nhậm chức, ông đã từ chối không cho nước Mỹ can thiệp sau khi cuộc tấn công của những người Cuba lưu vong do CIA chỉ đạo vào Vịnh Con lợn thất bại, ông cũng đã để cho quốc gia Đông Nam Á - nước Lào rơi vào tay kiểm soát của Cộng sản và đã ngầm đồng ý với việc dựng lên Bức tường Berlin. Các quyết định của Kennedy đều củng cố một cảm nhận về sự thỏa hiệp mà Tổng Bí thư Liên Xô, Nikita Khrushchev đã tạo ra trong cuộc gặp cá nhân duy nhất giữa hai người, một cuộc gặp thượng đỉnh vào tháng 6/1961 tại Vienna.
Chính trong bối cảnh này mà Kennedy đã gặp phải sự kiện nghiêm trọng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh, cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba.
Mùa thu năm 1962, Chính quyền Mỹ biết được rằng Liên Xô đang bí mật bố trí các dàn tên lửa hạt nhân trên đất Cuba. Sau khi cân nhắc các lựa chọn khác nhau, ông quyết định chiển dịch để ngăn chặn không cho tàu chiến Xô-viết tiếp tục vận chuyển thêm tên lửa tới Cuba. Đồng thời, ông đã công khai yêu cầu Liên Xô rút bỏ mọi loại tên lửa và vũ khí hạt nhân và cảnh báo rằng hành động quá khích của Liên Xô trên hòn đảo Cuba có thể sẽ dẫn đến một cuộc tấn công trả đũa Liên bang Xô-viết. Sau vài ngày căng thẳng, khi mà thế giới đã đứng kề miệng vực thảm họa chiến tranh hạt nhân, Liên Xô đã đồng ý rút lui cùng với dàn tên lửa của họ. Những người phê phán đã buộc tội ông là đã đánh liều với thảm họa hạt nhân trong khi chính sách ngoại giao hòa bình vẫn có thể là thích hợp. Cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba lần đầu tiên đã khiến Kennedy trở thành một nhà lãnh đạo nổi tiếng của phương Tây dân chủ.
Nhìn nhận lại, cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Xô-Mỹ. Cả hai bên đều nhìn thấy sự cần thiết phải giảm bớt căng thẳng có thể dẫn tới xung đột quân sự trực tiếp. Một năm sau đó, Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh đã ký một văn kiện quan trọng - Hiệp ước Cấm thử Vũ khí hạt nhân Cục bộ nhằm cấm mọi hình thức thử vũ khí hạt nhân trên không.
Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vốn là thuộc địa của Pháp từ trước Chiến tranh Thế giới Thứ hai, vẫn là một chiến trường khác của Chiến tranh Lạnh. Nỗ lực của nước Pháp nhằm tái lập ách thống trị đã vấp phải sự phản kháng của Hồ Chí Minh, một người Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ phong trào Việt Minh trong cuộc chiến tranh du kích chống lại ách cai trị của thực dân Pháp.
Cả Truman và Eisenhower đều muốn duy trì sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với nước Pháp nhằm thực thi chính sách ngăn chặn ảnh hưởng của Chủ nghĩa Cộng sản ở châu Âu nên đã cung cấp cho nước Pháp nhiều trợ giúp về kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham chiến của Pháp ở Việt Nam. Song Pháp đã thất bại hoàn toàn vào tháng 5/1954 tại Điện Biên Phủ. Tại hội nghị quốc tế Geneva, Lào và Campuchia được trao quyền độc lập. Việt Nam bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh là lãnh tụ ở miền Bắc và Ngô Đình Diệm - một phần tử chống cộng theo đạo Cơ đốc trong một đất nước mà đông đảo dân chúng là tín đồ Phật giáo - đứng đầu chính phủ ở miền Nam. Các cuộc bầu cử dự định sẽ được tổ chức hai năm sau đó để thống nhất đất nước. Do bị thuyết phục rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam có thể dẫn tới sự thất bại của Myanmar, Thái Lan và Indonesia nên Eisenhower đã ủng hộ Ngô Đình Diệm từ chối tiến hành tổng tuyển cử vào năm 1956 và đã biến miền Nam Việt Nam thành một chính quyền tay sai cho Mỹ.
Kennedy đã tăng cường viện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm và đưa một số cố vấn quân sự tới miền Nam Việt Nam, nhưng cuộc chiến tranh du kích giữa miền Bắc và miền Nam vẫn tiếp diễn. Diệm mất uy tín trước công chúng và tình hình quân sự ngày càng trở nên xấu đi. Cuối năm 1963, Kennedy đã bí mật ủng hộ một cuộc đảo chính tại miền Nam Việt Nam, nhưng trước sự ngỡ ngàng của Tổng thống Mỹ, Diệm và người em đầy quyền lực của ông, Ngô Đình Nhu - đã bị giết. Vào chính thời điểm bước ngoặt này, nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy cũng chấm dứt ba tuần sau đó.
CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VŨ TRỤ
Trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Eisenhower, chinh phục vũ trụ đã trở thành một đấu trường khác cho cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Liên Xô. Năm 1957, Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo Sputnik, từ đó chứng tỏ rằng họ có thể chế tạo những quả tên lửa mạnh hơn so với Mỹ. Tới năm 1958, Hoa Kỳ đã phóng vệ tinh đầu tiên, Explorer 1. Nhưng ba tháng sau khi Kennedy nhậm chức tổng thống, Liên Xô đã đưa được con người đầu tiên lên quỹ đạo. Kennedy đã đáp lại bằng việc giao cho Hoa Kỳ sứ mệnh đưa được con người lên mặt trăng và cũng như trở về trái đất trước khi thập niên này chấm dứt. Với dự án Mercury năm 1962, John Glenn đã trở thành nhà du hành vũ trụ Mỹ đầu tiên bay lên quỹ đạo trái đất.
Sau cái chết của Kennedy, Tổng thống mới Lyndon Johnson đã ra sức ủng hộ các chương trình không gian. Vào giữa những năm 1960, các nhà khoa học Hoa Kỳ đã chế tạo con tàu vũ trụ với hai phi công - con tàu Gemini. Gemini đã đạt được một số kỷ lục đầu tiên, trong đó có chuyến bay tám ngày vào vũ trụ tháng 8/1965 - chuyến bay vũ trụ dài ngày nhất tính tới thời điểm đó - và vào tháng 11/1966, Gemini đã tiến hành thành công vụ trở về khí quyển trái đất được điều khiển tự động lần đầu tiên. Gemini cũng thực hiện thành công vụ nối kết hai tàu vũ trụ đang bay do con người thực hiện lần đầu tiên, và thực hiện những cuộc dạo chơi ngoài không gian đầu tiên của người Mỹ.
Con tàu vũ trụ dành cho ba phi công mang tên Apollo đã đạt được mục tiêu do Kennedy đề ra và chứng minh cho toàn thế giới thấy rằng Mỹ đã vượt Liên Xô trong việc chinh phục vũ trụ. Ngày 20/7/1969, với hàng trăm triệu khán giả truyền hình trên toàn thế giới đang xem chương trình truyền hình trực tiếp, Neil A. Armstrong đã trở thành người đầu tiên bước chân lên mặt trăng.
Những chuyến bay khác của Apollo vẫn được tiếp tục sau đó, nhưng nhiều người Mỹ đã bắt đầu đặt câu hỏi về giá trị của những chuyến bay vào vũ trụ của con người. Vào đầu thập niên 1970, vì những ưu tiên khác đang trở nên cấp bách hơn, nên Hoa Kỳ đã cắt giảm chi phí cho Chương trình không gian. Một số chuyến bay của Apollo đã bị hủy bỏ; và chỉ có một trong hai trạm không gian Skylab theo đề xuất trước đó được xây dựng mà thôi.
CÁI CHẾT CỦA MỘT VỊ TỔNG THỐNG
John Kennedy đã giành được uy tín trên thế giới sau khi giải quyết thành công cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba, đồng thời, ông cũng giành được sự ủng hộ từ đông đảo quần chúng trong nước Mỹ. Nhiều người tin rằng ông sẽ tái đắc cử một cách dễ dàng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1964. Nhưng ngày 22/11/1963, ông đã bị ám sát trên chiếc xe mui trần trong chuyến đi thăm thành phố Dallas, bang Texas. Cái chết của ông, được truyền hình trực tiếp, là một sự kiện đau thương đối với dân chúng Mỹ, giống như cái chết của Tổng thống Roosevelt 18 năm về trước.
Khi nhìn lại, người ta thấy rõ rằng tiếng vang của Kennedy là bắt nguồn từ phong cách và những lý tưởng được nói một cách đầy hùng biện của ông hơn là từ việc thực thi chính sách. Ông đã có một chương trình nghị sự đầy tham vọng, nhưng cho đến khi ông chết, vẫn còn rất nhiều chương trình ông đề xuất bị ách lại ở Quốc hội. Chính nhờ năng lực chính trị và những thành công về lập pháp của người kế nhiệm ông đã khiến Kennedy được ví như một động lực thúc đẩy các cải cách tiến bộ.
LYNDON JOHNSON VÀ MỘT XÃ HỘI VĨ ĐẠI
Lyndon Johnson, một người Texas, đã từng là thủ lĩnh phe đa số tại Thượng viện trước khi làm Phó Tổng thống của Kennedy, là một chính khách lão luyện. Ông đã được rèn luyện tại Quốc hội nơi ông phát triển được tài năng kiệt xuất trong việc xử lý các tình huống để hoàn thành mọi nhiệm vụ. Ông có thể bào chữa, biện hộ, thuyết phục hay đe dọa khi cần thiết để đạt được các mục tiêu của mình. Tư tưởng tự do của ông có thể còn sâu sắc hơn người tiền nhiệm Kennedy. Với tư cách là Tổng thống, ông mong muốn được sử dụng quyền lực của mình để loại trừ nghèo đói và mang cuộc sống thịnh vượng tới cho tất cả mọi người.
Johnson đã nhậm chức với quyết tâm sẽ đảm bảo cho chương trình lập pháp của Kennedy được Quốc hội thông qua. Những ưu tiên đầu tiên của vị Tổng thống mới là các dự luật của người tiền nhiệm về giảm thuế và đảm bảo quyền công dân. Sử dụng những kỹ năng thuyết phục và kêu gọi sự tôn trọng của các nhà lập pháp đối với vị tổng thống đã bị sát hại, Johnson đã thành công trong việc thuyết phục Quốc hội thông qua cả hai dự luật ngay trong năm đầu tiên sau khi nhậm chức. Việc giảm thuế đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Còn Đạo luật Quyền Công dân năm 1964 là một đạo luật có tầm nhìn xa nhất trong lĩnh vực này kể từ thời kỳ tái thiết.
Johnson cũng bắt đầu triển khai các chương trình khác. Đến mùa xuân năm 1964, ông bắt đầu nói đến Xã hội vĩ đại để mô tả chương trình cải cách kinh tế xã hội của mình. Mùa hè năm đó, Quốc hội đã thông qua chương trình Việc làm Liên bang cho các thanh niên nghèo không có việc làm. Đây là bước đi đầu tiên của cuộc chiến “Chống đói nghèo". Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 11 năm đó, ông đã thắng phiếu áp đảo trước đối thủ Đảng Cộng hòa bảo thủ Bary Goldwater. Đáng chú ý là cuộc bầu cử tổng thống năm 1964 đã mang lại cho những người thuộc Đảng Dân chủ tự do sự kiểm soát Quốc hội vững chắc lần đầu tiên kể từ năm 1938. Điều đó khiến họ có thể thông qua các đạo luật mà không e ngại sự bất hợp tác của hai phe đối lập là Đảng Cộng hòa và các đại biểu bảo thủ của Đảng Dân chủ miền Nam.
Cuộc chiến chống đói nghèo đã trở thành nhiệm vụ trung tâm của Chương trình Xã hội vĩ đại. Cơ quan Cơ hội Kinh tế, được thành lập năm 1964, đã giúp cho người nghèo được đào tạo và đã thiết lập các cơ quan hành động cộng đồng khác nhau, với tư tưởng dân chủ để người nghèo có được tiếng nói của mình trong các chương trình về nhà cửa, sức khoẻ và giáo dục.
Tiếp theo là các chương trình chăm sóc y tế. Dưới sự lãnh đạo của Johnson, Quốc hội đã ban hành Luật Chăm sóc y tế, một chương trình bảo hiểm y tế cho người già, và Luật Trợ cấp y tế, một chương trình hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo.
Johnson cũng thành công trong nỗ lực cung cấp nhiều trợ giúp liên bang hơn nữa cho các trường tiểu học và trung học cơ sở, vốn theo truyền thống, là hệ thống thuộc chức năng của các bang và các địa phương. Biện pháp hỗ trợ là cấp tiền cho các bang, dựa vào số lượng trẻ em sinh ra trong các gia đình có thu nhập thấp. Các quỹ này cũng có thể được sử dụng để giúp đỡ học sinh trong các trường công cũng như các trường tư.
Tin rằng nước Mỹ đang đứng trước một cuộc khủng hoảng đô thị mà biểu hiện rõ nét là các khu nội thị đang thu hẹp dần, những người kiến tạo nên Chương trình Xã hội vĩ đại đã đưa ra một Đạo luật mới về Nhà ở, và đã cung cấp các khoản hỗ trợ tiền thuê nhà cho người nghèo. Đồng thời, họ cũng đã lập ra Bộ Nhà ở và Phát triển đô thị.
Các đạo luật khác cũng được ban hành và có ảnh hưởng rất lớn đến muôn mặt đời sống của người Mỹ. Trợ giúp Liên bang còn được cấp cho các nghệ sỹ và các giáo viên trung học và tiểu học nhằm hỗ trợ cho công việc khó khăn của họ. Tháng 9/1966, Johnson đã ký hai Đạo luật về giao thông. Đạo luật thứ nhất cấp quỹ cho chính quyền các bang và địa phương nhằm xây dựng các chương trình an toàn giao thông. Đạo luật thứ hai xác lập các tiêu chuẩn liên bang về độ an toàn của săm lốp và của các loại xe ôtô. Chương trình thứ hai này phản ánh nỗ lực của một luật sư trẻ cấp tiến - Ralf Nader. Trong cuốn sách ấn hành năm 1965 của mình, Nguy hiểm ở mọi tốc độ, những hiểm họa tiềm tàng của ôtô Mỹ, Nader đã chỉ trích rằng các nhà sản xuất đã hy sinh những tiêu chuẩn an toàn để đạt những mục đích về kiểu dáng ôtô, và cáo buộc rằng những lỗi trong thiết kế và chế tạo đã góp phần gây ra tai nạn trên xa lộ.
Năm 1965, Quốc hội đã bãi bỏ đạo luật phân biệt đối xử năm 1924 quy định hạn ngạch nhập cư tuỳ thuộc vào quốc tịch gốc của họ. Động thái này đã gây ra một làn sóng nhập cư mới, chủ yếu từ Nam Á, Đông Á và châu Mỹ La-tinh.
Chương trình Xã hội vĩ đại quả là một thời kỳ bùng phát các hoạt động lập pháp kể từ thời Chính sách kinh tế mới. Nhưng sự ủng hộ cho chính quyền của Johnson đã bắt đầu yếu đi vào đầu năm 1966. Một số chương trình của Johnson không được thực thi đúng theo những mong đợi của dân chúng; nhiều chương trình được cấp tiền không đủ. Cuộc khủng hoảng đô thị có chiều hướng xấu đi. Tuy vậy, dù là nhờ vào những khoản chi tiêu công trong Chương trình Xã hội vĩ đại hay nhờ vào sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, nghèo đói đã giảm bớt, dù chỉ là giảm đôi chút, dưới thời của Tổng thống Johnson.
CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Sự không hài lòng với Chương trình Xã hội vĩ đại lại càng trùng hợp với những thất vọng trong Chiến tranh Việt Nam. Hàng loạt các nhà lãnh đạo quyền lực ở miền Nam Việt Nam cũng tỏ ra chẳng hơn Diệm là bao trong việc vận động quần chúng. Các lực lượng Việt Cộng, được miền Bắc Việt Nam trợ lực, đã giành được ưu thế tại khu vực nông thôn.
Quyết tâm ngăn chặn những bước tiến của cộng sản ở miền Nam Việt Nam, Johnson đã biến cuộc chiến tranh ở Việt Nam trở thành cuộc chiến của chính ông. Sau khi lấy cớ một cuộc tấn công của hải quân Bắc Việt Nam vào hai tàu trục hạm của Mỹ, ngày 7/8/1964, Johnson đã thuyết phục được Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho phép Tổng thống thi hành tất cả các biện pháp cần thiết để đẩy lui bất kỳ một cuộc tấn công vũ trang nào chống lại các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ và ngăn ngừa một cuộc xâm lược tiếp theo. Sau khi tái đắc cử tháng 11/1964, ông đã lao vào tiến hành chính sách leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Từ 25.000 binh sỹ vào đầu năm 1965, con số binh lính - bao gồm cả lính tình nguyện và lính quân địch - đã tăng tới 500.000 người vào đầu năm 1968. Một chiến dịch ném bom ồ ạt đã tàn phá nặng nề cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam.
Sau khi chứng kiến những trận đánh rùng rợn được trình chiếu trên truyền hình với những bình luận đầy tính phê phán, người Mỹ bắt đầu phản đối việc nước Mỹ dính líu vào cuộc chiến tranh này. Một số người cho rằng cuộc chiến này là vô đạo đức, một số khác thì tỏ ra hoang mang khi chiến dịch quân sự ồ ạt dường như không hiệu quả. Sự phản đối chiến tranh ngày càng rộng khắp trong dân chúng Mỹ, đặc biệt là trong tầng lớp thanh niên và sự bất mãn của dân chúng ngày càng tăng đã buộc Johnson phải bắt đầu tiến hành các cuộc đàm phán hòa bình.
CUỘC BẦU CỬ NĂM 1968
Năm 1968, nước Mỹ lâm vào tình trạng hỗn loạn do Chiến tranh Việt Nam và những cuộc nổi loạn ở thành thị phản ánh sự bất mãn của người Mỹ gốc Phi. Vào ngày 31/3/1968, Tổng thống tuyên bố không có ý định tranh cử cho nhiệm kỳ mới. Một tuần sau đó, Martin Luther King Jr. đã bị bắn chết tại Memphis, Tennessee. Em trai của John Kennedy, Robert, người đã tổ chức một cuộc diễu hành chống chiến tranh và là người được đề cử đại diện cho Đảng Dân chủ cũng bị ám sát sau đó vào tháng 6.
Tại Hội nghị quốc gia của Đảng Dân chủ tại Chicago, bang Illinois, những người phản đối chiến tranh đã đụng độ với cảnh sát trên đường phố. Phó Tổng thống Hubert Humphrey, người được bổ nhiệm là đại diện cho Đảng Dân chủ, đã từng là người hùng trong các chiến dịch đòi quyền tự do, nay lại bị coi là đồ đệ trung thành của Johnson. Phái đối lập da trắng chống lại việc thực thi quyền công dân vào thập niên 1960 và sự ra ứng cử của Đảng thứ ba của Thống đốc bang Alabama là George Wallace (người đã thắng cử ở bang quê hương ông và ở các bang Mississippi, Arkansas, Louisiana và Georgia), người đã cạnh tranh với ứng cử viên của Đảng Dân chủ. Richard Nixon thuộc Đảng Cộng hòa đã thắng cử sát nút với kế hoạch đưa Hoa Kỳ thoát khỏi cuộc chiến tranh và thiết lập lại luật pháp và trật tự trong nước Mỹ.
NIXON, VIỆT NAM VÀ CHIẾN TRANH LẠNH
Quyết tâm đạt được hòa bình trong danh dự, Nixon đã dần dần rút quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam, đồng thời tăng mạnh viện trợ vũ khí phương tiện để miền Nam Việt Nam có thể tiếp tục cuộc chiến. Ông cũng ra lệnh tiến hành một loạt các cuộc tấn công dữ dội, mà cuộc tấn công quan trọng nhất là xâm lược Campuchia vào năm 1970 nhằm cắt đứt các tuyến đường cung cấp của miền Bắc tới miền Nam Việt Nam chạy qua Campuchia. Hành động này đã làm dấy lên những cuộc phản đối và biểu tình mới. Sinh viên ở nhiều trường đại học đã biểu tình trên đường phố. Tại Kent State, bang Ohio, các đơn vị vệ binh quốc gia được gọi tới để duy trì trật tự đã làm chết bốn sinh viên.
Tuy nhiên, cho đến mùa thu năm 1972, số binh sỹ Mỹ có mặt tại Việt Nam đã rút xuống còn dưới 50.000 người, và lệnh quân dịch vốn đã gây ra sự bất bình to lớn tại các khu sinh viên, đã không còn hiệu lực. Cuối cùng, vào năm 1973, lệnh ngừng bắn do Henrry Kissinger, Cố vấn An ninh Quốc gia của Chính quyền Nixon, tiến hành đàm phán thay mặt Hoa Kỳ đã được ký kết. Tuy các đơn vị quân đội Mỹ đã rút đi, song chiến tranh vẫn còn kéo dài cho tới mùa xuân năm 1975, khi Quốc hội Mỹ cắt hoàn toàn viện trợ cho miền Nam Việt Nam, và Bắc Việt Nam đã giành được quyền kiểm soát trên toàn bộ đất nước.
Cuộc Chiến tranh Việt Nam đã để lại một nước Việt Nam bị tàn phá với hàng triệu người chết và tàn tật. Cuộc chiến cũng để lại đằng sau một nước Mỹ đau thương. Hoa Kỳ đã tiêu phí hơn 150 tỷ đô-la vào một nỗ lực vô ích với cái giá là 58.000 sinh mạng người Mỹ. Cuộc chiến tranh này cũng chấm dứt sự đồng thuận trong chính sách đối ngoại của Chiến tranh Lạnh và khiến nhiều người Mỹ lo ngại về những hành động khác nữa của dân tộc họ tại nước ngoài.
Khi chiến tranh chấm dứt, chính quyền Nixon đã tiến hành các bước đi lịch sử để thắt chặt quan hệ với các cường quốc cộng sản quan trọng. Bước đi ngoạn mục nhất là việc thiết lập quan hệ cởi mở với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong suốt hai mươi năm, kể từ khi Mao Trạch Đông giành chiến thắng, Hoa Kỳ đã biện thuyết rằng Chính phủ Quốc dân Đảng ở Đài Loan mới là đại diện cho Trung Quốc. Vào những năm 1971 và 1972, Nixon đã làm dịu đi lập trường của Mỹ, giảm nhẹ những hạn chế mậu dịch và trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên đi thăm Bắc Kinh. Tuyên bố Thượng Hải được ký kết trong chuyến thăm này là mốc ngoặt đánh dấu sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc: nước Mỹ công nhận chỉ có một nước Trung Hoa, Đài Loan chỉ là một phần của Trung Quốc và những tranh luận hòa bình của Trung Quốc cũng là mối quan tâm của Hoa Kỳ.
Với Liên Xô, Nixon đã thành công như đối với Trung Quốc trong việc theo đuổi chính sách mà ông và Ngoại trưởng Henry Kissinger gọi là sự hòa dịu. Nixon đã có một vài cuộc gặp gỡ thân mật với nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev trong đó họ thỏa thuận hạn chế kho dự trữ tên lửa, hợp tác thám hiểm không gian và giảm nhẹ những hạn chế về mậu dịch. Những cuộc đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược (SALT) đã đạt được thành công vào năm 1972 bằng Hiệp định Kiểm soát Vũ khí, hạn chế việc tăng cường các kho vũ khí hạt nhân và hạn chế hệ thống chống tên lửa đạn đạo.
NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA NIXON
Vốn là Phó Tổng thống dưới thời Eisenhower trước cuộc chạy đua giành ghế tổng thống bất thành năm 1960, Nixon được coi là một trong những nhà chính trị tài ba của nước Mỹ. Tuy ông đồng ý với tư tưởng Cộng hòa về trách nhiệm tài khóa, nhưng ông cũng chấp nhận vai trò ngày càng lớn của Chính phủ, và ủng hộ cơ sở nền tảng của một nhà nước an sinh. Chỉ đơn giản là ông muốn quản lý các chương trình của Chính phủ một cách tốt hơn. Về nguyên tắc, ông không phản đối phong trào đòi quyền công dân của người Mỹ gốc Phi, mà chỉ lo lắng về tính quan liêu của phong trào quyền công dân của liên bang. Tuy nhiên, Chính quyền Nixon đã kiên quyết thực thi các phán quyết của tòa án về việc chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc ở trường học, mặc dù điều đó khiến Nixon không được các cử tri da trắng ở miền Nam ủng hộ.
Có lẽ vấn đề đối nội nghiêm trọng nhất mà Nixon phải đối phó là tình trạng kinh tế của nước Mỹ. Ông vừa phải thừa hưởng sự trì trệ về kinh tế của thời Johnson do cuộc chiến Việt Nam gây ra, vừa phải giải quyết tình trạng lạm phát trầm trọng vốn là một sản phẩm của cuộc chiến. Trong vấn đề thứ nhất, ông đã trở thành vị tổng thống Cộng hòa đầu tiên coi thâm hụt chi tiêu chính phủ là động lực khôi phục kinh tế. Trong vấn đề thứ hai, ông đã cho thi hành các biện pháp kiểm soát giá - lương vào năm 1971. Ngay lập tức, các quyết định này của ông đã ổn định được nền kinh tế và tạo thuận lợi cho việc tái đắc cử của Nixon trong cuộc bầu cử năm 1972. Ông đã chiến thắng áp đảo đối thủ chủ trương hòa bình - Thượng nghị sỹ Đảng Dân chủ - George McGoven.
Mọi việc trở nên nghiêm trọng hơn trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Nixon. Ông đã phải đối mặt từ rất sớm với những lời cáo buộc rằng ủy ban vận động tái tranh cử của ông đã dính líu đến vụ đột nhập vào tòa nhà Watergate - trụ sở của ủy ban Dân chủ Quốc gia và ông đã che đậy, giấu giếm sự dính líu của mình. Những công tố viên đặc biệt và một ủy ban Quốc hội đã điều tra và kết luận về sự dính líu của Nixon trong vụ việc này khiến ông phải sớm từ chức năm 1974.
Nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của Nixon đã xảy ra và làm xói mòn các chính sách kinh tế của ông. Năm 1973, chiến tranh giữa Israel, Ai Cập và Syria đã thúc đẩy Arập Xêút ban hành lệnh cấm vận các tàu chở dầu đến Hoa Kỳ - đồng minh của Israel. Những nước thành viên khác của tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã tăng giá dầu lên gấp bốn lần. Người Mỹ phải đương đầu với cả sự thiếu hụt dầu mỏ lẫn sự tăng giá dầu lên nhanh chóng. Thậm chí khi cấm vận chấm dứt vào năm sau, giá dầu mỏ vẫn cao và ảnh hưởng tới mọi khu vực trong nền kinh tế Mỹ. Năm 1974, lạm phát lên tới 12% và dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp còn cao hơn. Giai đoạn tăng trưởng kinh tế chưa từng có từ năm 1948 đã kết thúc.
Những lời hoa mỹ mà Nixon dùng để nói về sự cần thiết phải có pháp luật và trật tự để ngăn chặn tình hình tỉ lệ tội phạm ngày càng tăng, việc sử dụng ma túy trở nên phổ biến và những quan điểm dễ dãi về tình dục đã thuyết phục được nhiều người Mỹ. Nhưng mối quan ngại này không đủ để lu mờ được những quan ngại do quản lý kinh tế thất bại và đặc biệt là sau vụ Watergate. Tìm mọi cách để củng cố và mở rộng khu vực cử tri chính trị của mình, Nixon đã công kích dữ dội những người biểu tình, tấn công báo chí vì tội đưa tin xuyên tạc và cố sức bịt miệng các đối thủ. Nhưng trái lại, ông đã gây ra những ấn tượng xấu trong lòng dân chúng và nhiều người Mỹ, thông qua truyền hình, đã có cảm giác rằng ông là một người không ổn định. Thêm vào những rắc rối của Nixon, vị Phó Tổng thống Spiro Angnew lại có các hành vi chống lại giới truyền thông và những người theo phái tự do, đã bị buộc phải từ chức năm 1973 khi ông không phản đối lời buộc tội đã có hành vi trốn thuế.
Có thể Nixon không tham gia trực tiếp vào vụ Watergate nhưng dù sao ông cũng đã tìm cách che giấu vụ việc và do đó, đã nói dối công chúng Mỹ về các vấn đề liên quan đến vụ việc này. Đương nhiên là sự ủng hộ của dân chúng dành cho Nixon đã suy giảm. Vào ngày 27/7/1974, ủy ban Tư pháp của Hạ viện đã bỏ phiếu buộc tội Nixon. Đứng trước nguy cơ chắc chắn bị miễn nhiệm, ông đã từ chức ngày 9/8/1974.
THỜI GIAN LÀM TỔNG THỐNG TẠM QUYỀN CỦA FORD
Phó Tổng thống của Nixon, Gerald Ford (được bổ nhiệm thay thế Angnew), một con người khiêm tốn đã dành toàn bộ cuộc đời hoạt động xã hội của mình để làm việc trong Quốc hội, đã trở thành Tổng thống kế nhiệm Nixon. Ưu tiên lớn nhất của ông là phục hồi lòng tin của dân chúng vào chính phủ. Tuy nhiên, do cảm thấy cần phải có một động thái để tránh cho Nixon bị buộc tội trong tương lai, ông đã có quyết định tha thứ cho người tiền nhiệm của mình. Đối với ông, có thể động thái này là cần thiết nhưng quyết định đó lại không được dân chúng ủng hộ.
Trong chính sách đối nội, Ford tiếp tục đường lối mà Nixon đã xác lập. Nhưng các vấn đề kinh tế vẫn trong tình trạng nguy kịch vì lạm phát và thất nghiệp gia tăng. Lúc đầu, Ford cố gắng trấn an công chúng như Herbert Hoover đã từng làm năm 1929. Khi thấy điều này không có tác dụng, ông liền ban hành các biện pháp kiềm chế lạm phát và giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 8%. Việc cắt giảm thuế kết hợp với những khoản trợ cấp thất nghiệp cao hơn tuy có khiến tình hình khả quan hơn nhưng nền kinh tế vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém.
Về chính sách đối ngoại, Ford đã áp dụng chính sách ôn hòa do Nixon khởi xướng. Có lẽ động thái quan trọng nhất của ông trong chính sách đối ngoại là Hiệp ước Hensinki năm 1975, trong đó Hoa Kỳ và các nước Tây Âu đã thừa nhận thế bá chủ của Liên Xô ở Đông Âu để đổi lại cam kết nhân quyền của Liên Xô. Hiệp ước này không có những ảnh hưởng đáng ghi nhận ngay lập tức, nhưng về dài hạn, nó sẽ khiến cho việc duy trì của đế chế Xô-viết trở nên khó khăn hơn. Trên thực tế, các quốc gia phương Tây đã sử dụng thành công những cuộc họp rà soát lại Hiệp ước Helsinki được tổ chức định kỳ nhằm kêu gọi sự chú ý của dư luận tới những hành vi có thể lạm dụng và vi phạm quyền con người của các chế độ cộng sản thuộc khối Đông Âu.
NHỮNG NĂM THÁNG CẦM QUYỀN CỦA CARTER
Jimmy Carter, cựu thống đốc thuộc phe dân chủ bang Georgia đã thắng cử tổng thống năm 1976. Khi tự khắc họa chân dung mình trong cuộc vận động tranh cử như một người đứng ngoài đời sống chính trị của Washington, ông đã hứa hẹn một cách tiếp cận mới mẻ trong việc cai trị đất nước, nhưng do thiếu kinh nghiệm quản lý ở tầm quốc gia nên nhiệm kỳ tổng thống của ông đã gặp khó khăn ngay từ buổi đầu. Vốn được đào tạo để trở thành một sỹ quan hải quân và một kỹ sư, nên ông thường tỏ ra là một nhà kỹ trị, trong khi người Mỹ lại muốn có một người lãnh đạo có tầm nhìn hơn để đưa họ vượt qua thời buổi khó khăn, phức tạp này.
Trước các khó khăn kinh tế, đầu tiên, Carter thực thi chính sách chi tiêu thâm hụt. Lạm phát lên tới 10% mỗi năm khi Cục Dự trữ Liên bang - cơ quan chịu trách nhiệm về hoạch định chính sách tiền tệ - tăng lượng cung tiền để khắc phục các khoản thâm hụt ngân sách. Carter phản ứng lại bằng việc cắt giảm ngân sách để nhịp độ lạm phát chậm lại, nhưng những cắt giảm đó lại ảnh hưởng tới các chương trình xã hội vốn là mấu chốt trong chính sách của Đảng Dân chủ. Giữa năm 1979, sự chán nản trong giới tài chính đã buộc Carter phải bổ nhiệm Paul Volcker giữ chức Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang. Volcker là một người sắt đá kiên quyết chống lại nạn lạm phát bằng cách tăng lãi suất để kiểm soát sự tăng giá, đã gây nên những hậu quả bất lợi cho nền kinh tế.
Carter cũng phải đối mặt với các chỉ trích khác do ông không thể thuyết phục Quốc hội thông qua một chính sách năng lượng có hiệu quả. Ông đã đề xuất một chương trình bao quát toàn diện nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào dầu mỏ của nước ngoài. Phái đối lập đã phản đối chương trình này tại Quốc hội.
Mặc dầu Carter tự coi mình là người theo chủ nghĩa dân túy, nhưng những ưu tiên về chính trị của ông chưa bao giờ thực sự rõ ràng. Ông tán thành vai trò bảo trợ của chính phủ, nhưng sau đó lại bắt đầu tiến hành thuyết phi điều tiết - tức là bãi bỏ sự kiểm soát của chính phủ trong đời sống kinh tế. Ông lý luận rằng các hạn chế trong đường lối chính trị của thế kỷ trước đã hạn chế cạnh tranh và làm tăng giá hàng hóa tiêu dùng. Ông tỏ ý tán thưởng việc bãi bỏ kiểm soát trong các ngành công nghiệp dầu mỏ, hàng không, đường sắt và vận chuyển hàng hóa.
Các nỗ lực chính trị của Carter đã không giành được sự ủng hộ của cả dân chúng lẫn Quốc hội. Cho tới cuối nhiệm kỳ của mình, ông đã bị 77% người Mỹ không tán thành và dân chúng lại bắt đầu lại trông mong vào Đảng Cộng hòa.
Thành công lớn nhất trong chính sách đối ngoại của Carter là vai trò trong cuộc đàm phán hòa bình giữa Ai Cập dưới thời Tổng thống Anwar al-Sadat và Israel dưới thời Thủ tướng Menachem Begin. Đóng vai trò vừa là người tham dự vừa là trung gian hòa giải, Carter đã thuyết phục hai nhà lãnh đạo kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài suốt 30 năm giữa hai quốc gia này. Hai nhà lãnh đạo này đã đến Hoa Kỳ để ký Hiệp ước Hòa bình tại Nhà Trắng vào tháng 3/1979.
Sau nhiều cuộc tranh luận kéo dài và đầy cảm xúc, Carter đã thuyết phục được Thượng viện phê chuẩn Hiệp ước sẽ trao trả Kênh đào Panama cho nước Cộng hòa Panama vào năm 2000. Ông cũng đã đi thêm một bước so với đường lối của Nixon bằng việc chính thức công nhận quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Vấn đề đối ngoại khó khăn nhất mà Carter phải đối mặt là vấn đề Iran. Sau cuộc cách mạng Hồi Giáo chính thống do thủ lĩnh hồi giáo dòng Shiite là Giáo chủ Ruhollah Khomeini lãnh đạo, thì chính phủ tham nhũng nhưng thân thiện trước kia đã bị thay thế. Carter đã chấp nhận để vua Ba-tư bị phế truất tới Hoa Kỳ chữa bệnh. Những binh sỹ nổi giận người Iran, được Chính phủ Hồi giáo ủng hộ, đã chiếm sứ quán Mỹ ở Teheran và bắt giữ 53 con tin người Mỹ trong hơn một năm. Cuộc khủng hoảng con tin kéo dài đã làm u ám năm cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống và khiến Carter không còn cơ may tái đắc cử.
Chương 14: Chủ nghĩa bảo thủ mới và trật tự thế giới mới
"Tôi luôn tin tưởng rằng một sự sắp đặt thánh thần nào đó của tạo hóa đã khiến cho châu lục rộng lớn nằm giữa hai đại dương này được tìm thấy bởi những người có một tình yêu cháy bỏng đối với tự do và một lòng dũng cảm đặc biệt"
Thống đốc bang California, Ronald Reagan, 1974
MỘT XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
Bước sang thập niên 1980, sự thay đổi trong cấu trúc xã hội Mỹ vốn đã được bắt đầu từ nhiều năm, thậm chí từ nhiều thập niên trước đây, đã trở nên rõ ràng. Cơ cấu dân cư và những ngành nghề, những kỹ năng quan trọng nhất trong xã hội Mỹ đã có những đổi thay căn bản.
Sự thống trị của ngành dịch vụ trong nền kinh tế đã trở nên không thể phủ nhận. Cho đến giữa những năm 1980, có 3/4 số công nhân viên làm việc trong khu vực dịch vụ. Họ là các nhân viên bán lẻ, nhân viên văn phòng, giáo viên, thầy thuốc và các viên chức chính phủ.
Sự xuất hiện và sử dụng máy vi tính ngày càng tăng đã đem lại nhiều lợi ích cho hoạt động trong ngành dịch vụ. Kỷ nguyên tin học đã đến, với phần cứng và phần mềm có khả năng tích hợp các dữ liệu khổng lồ mà trước đây người ta khó có thể hình dung khi xuất hiện mới ra về những khuynh hướng kinh tế và xã hội. Chính phủ liên bang đã đầu tư đáng kể vào công nghệ máy tính trong hai thập niên 1950 và 1960 cho các chương trình quân sự và vũ trụ của mình.
Năm 1976, hai doanh nhân trẻ tuổi ở California, làm việc tại một xưởng sửa chữa ôtô, đã lắp đặt chiếc máy tính đầu tiên dùng cho gia đình được chào bán rất rộng rãi, đặt tên cho loại máy này là Apple, và thổi bùng lên một cuộc cách mạng. Cho tới đầu thập niên 1980, hàng triệu máy vi tính đã xâm nhập vào các doanh nghiệp và các gia đình Mỹ, và vào năm 1982, tạp chí Time đã trao danh hiệu Cỗ máy của năm của mình cho chiếc máy tính.
Trong khi đó, các ngành công nghiệp nặng của nước Mỹ đã suy thoái. Ngành công nghiệp ôtô Mỹ chao đảo dưới sự canh tranh của các công ty chế tạo ôtô có hiệu quả rất cao của Nhật Bản. Cho tới năm 1980, các công ty Nhật Bản đã sản xuất ra một phần năm các loại phương tiện được bán trên thị trường Mỹ. Các nhà sản xuất xe hơi Mỹ đã phải vất vả cạnh tranh với một số thành công nhất định để sánh được mức độ hiệu quả về giá thành và tiêu chuẩn kỹ thuật của các đối thủ Nhật Bản, nhưng địa vị thống trị thị trường xe hơi trước kia của họ thì đã mãi mãi không còn nữa. Những công ty thép khổng lồ xưa kia cũng bị thu hẹp và trở nên khá mờ nhạt khi các nhà sản xuất thép nước ngoài đã áp dụng các công nghệ mới một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn.
Người tiêu dùng là những người được hưởng lợi từ các cuộc cạnh tranh khốc liệt này trong các ngành công nghiệp chế tạo, song cuộc đấu tranh vất vả nhằm giảm chi phí ấy cũng đồng nghĩa với việc hàng trăm nghìn công nhân lao động giản đơn mãi mãi bị mất việc làm. Một số người đã chuyển sang làm việc trong các ngành dịch vụ, còn một số người khác thì đành chịu cảnh thất nghiệp.
Các cơ cấu dân cư cũng thay đổi mạnh mẽ. Sau khi cuộc bùng nổ trẻ sơ sinh sau chiến tranh chấm dứt (từ 1946 đến 1964), thì tỷ lệ tăng dân số đã giảm và cư dân trở nên già hơn. Cấu trúc hộ gia đình cũng biến đổi. Năm 1980, tỷ lệ các hộ gia đình đã suy giảm; 1/4 của các nhóm gia đình được xếp loại là những hộ không phải là gia đình, trong đó, có hai hay nhiều hơn hai người không có quan hệ ruột thịt sống chung với nhau.
Những người mới nhập cư đã làm thay đổi tính chất xã hội của nước Mỹ theo những cách khác. Cải cách năm 1965 về chính sách nhập cư đã không còn đặt trọng tâm vào những người nhập cư từ Tây Âu nữa, và làm tăng số người nhập cư từ châu Á và châu Mỹ La-tinh. Năm 1980, 808.000 người nhập cư đã tới Mỹ, con số cao nhất trong vòng 60 năm, khi nước Mỹ một lần nữa lại trở thành nơi cư ngụ cho tất cả mọi người từ khắp nơi trên thế giới.
Các nhóm dân cư mới này đã trở thành các thành viên tham gia tích cực trong cuộc chiến tranh đòi được có những cơ hội bình đẳng. Những người đồng tính luyến ái sử dụng chiến thuật và đường lối của phong trào tranh đấu đòi quyền công dân, tự cho mình là những người bị kỳ thị đang đấu tranh đòi được công nhận những quyền căn bản. Năm 1975, ủy ban Công tác Dân sự Hoa Kỳ đã bãi bỏ lệnh cấm tuyển dụng những người đồng tính luyến ái, và nhiều bang đã ban hành luật chống kỳ thị.
Sau đó, vào năm 1981, người ta đã phát hiện ra bệnh AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch). Lây nhiễm qua đường tình dục hay đường truyền máu, căn bệnh này đã tác động nặng nề đến những người đồng tính luyến ái và những người tiêm chích ma túy, mặc dù những người dân bình thường cũng có nguy cơ bị lây nhiễm. Cho tới năm 1992, đã có hơn 220.000 người Mỹ bị chết vì bệnh AIDS. Bệnh dịch AIDS không chỉ giới hạn trong nước Mỹ, và nỗ lực chữa trị căn bệnh này hiện nay đã có sự tham gia của các dược sỹ và các nhà nghiên cứu y học trên khắp thế giới.
CHỦ NGHĨA BẢO THỦ VÀ VIỆC LÊN NẮM QUYỀN CỦA RONALD REAGAN
Đối với nhiều người Mỹ, những xu hướng kinh tế, xã hội và chính trị của hai thập niên vừa qua - tội ác và phân biệt chủng tộc tại nhiều trung tâm đô thị, các thách thức đối với những giá trị truyền thống, và sự trì trệ về kinh tế và nạn lạm phát dưới thời Carter - đã gây ra tâm trạng thất vọng của dân chúng. Nó cũng làm cho dân chúng càng thêm hoài nghi đối với chính phủ và khả năng của chính phủ trong việc giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề xã hội và chính trị của đất nước.
Những người thuộc phái bảo thủ lâu nay vốn đã bị gạt ra ngoài bộ máy quyền lực quốc gia nay lại có vị thế chính trị thuận lợi trong bối cảnh mới. Nhiều người Mỹ đã mau chóng lĩnh hội quan điểm về một chính phủ hạn chế, về một nền quốc phòng vững mạnh và về việc bảo vệ các giá trị truyền thống.
Sự bùng phát của chủ nghĩa bảo thủ có nhiều lý do. Một nhóm người đông đảo gồm các tín đồ Công giáo chính thống đã đặc biệt lo ngại về sự gia tăng tội ác và các quan điểm trái đạo đức về tình dục. Họ mong muốn đưa tôn giáo trở lại vị trí trung tâm trong đời sống người Mỹ. Một trong những nhóm có ảnh hưởng nhất về chính trị, vào đầu những năm 1980, có tên là Đa số Đạo đức do Jerry Falwell - một Bộ trưởng theo đạo Thiên Chúa lãnh đạo. Một nhóm khác do Reverend Pat Robertson lãnh đạo đã xây dựng nên một tổ chức lấy tên là Liên minh Công giáo. Cho tới những năm 1990, tổ chức này vẫn là một lực lượng có ảnh hưởng lớn trong Đảng Cộng hòa. Sử dụng truyền hình để phổ biến rộng rãi thông điệp của họ, Falwell, Robertson và những người như họ đã lôi kéo được đông đảo người ủng hộ.
Một vấn đề khác mang sắc thái quá khích của những người bảo thủ là một vấn đề tình cảm - vấn đề phá thai. Phản đối quyết định của Tòa án Tối cao năm 1973 trong vụ Roe kiện Wade, trong đó Tòa án đã ủng hộ quyền phá thai trong những tháng đầu mang thai của phụ nữ, những người bảo thủ đã tập hợp được một lực lượng lớn các tổ chức và cá nhân. Trong đó không chỉ bao gồm đông đảo các tín đồ Công giáo La mã, mà còn có những người ủng hộ chủ nghĩa bảo thủ và những người thuộc phái chính thống tôn giáo, phần lớn những người này đều coi việc phá thai dưới bất cứ hoàn cảnh nào đều tương đương với hành vi giết người. Những cuộc biểu tình ủng hộ quyền lựa chọn của người mẹ và quyền được sống của thai nhi (có nghĩa là ủng hộ chuyện phá thai hay phản đối chuyện phá thai) đã trở thành tâm điểm trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ.
Ngay trong Đảng Cộng hòa, phe bảo thủ một lần nữa lại giành được vị trí thắng thế. Trong một thời gian ngắn, họ đã giành được quyền kiểm soát đa số trong Đảng Cộng hòa vào năm 1964 với ứng cử viên tổng thống của đảng là Barry Goldwater, sau đó đã không còn được người ta chú ý nữa. Tuy nhiên, cho tới năm 1980, với thất bại của chủ nghĩa tự do dưới thời Carter, phe Tân Hữu lại có thể tìm được vị trí thống trị của mình.
Nhờ sử dụng các kỹ thuật thư tín trực tiếp và sức mạnh của các phương tiện truyền thông để truyền đi các thông điệp và thực hiện việc gây quỹ dựa trên sáng kiến của những người theo chủ nghĩa bảo thủ như nhà kinh tế Milton Friedman, nhà báo William F. Buckley và George Will và các cơ quan nghiên cứu như Quỹ Di sản, cánh Tân Hữu đã giữ một vai trò quan trọng trong việc định ra đường lối của những năm 1980.
Cánh Cựu Hữu ủng hộ quan điểm hạn chế can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Quan điểm này được củng cố hơn nữa khi một nhóm Tân Hữu gồm những nhà chính trị theo chủ nghĩa bảo thủ tự do ngờ vực vai trò của chính phủ nói chung và phản đối sự can thiệp của nhà nước vào hành vi cá nhân. Nhưng cánh Tân Hữu cũng bao gồm cả một bè phái mạnh hơn, gồm những người theo trường phái Phúc Âm, muốn dùng quyền lực của nhà nước nhằm củng cố cho quan điểm của mình. Họ ủng hộ những biện pháp chống tội phạm, ủng hộ quan điểm xây dựng một nền quốc phòng hùng mạnh, ủng hộ một điều khoản trong hiến pháp cho phép được cầu kinh tại các trường công và phản đối việc phụ nữ phá thai.
Nhân vật đã tập trung được tất cả những xu hướng khác biệt này lại với nhau là Ronald Reagan. Reagan sinh ra ở bang Illinios, là diễn viên điện ảnh Hollywood và diễn viên truyền hình trước khi chuyển sang hoạt động chính trị. Lúc đầu, ông đã giành được uy tín chính trị nhờ một bài diễn văn được phát trên truyền hình toàn quốc vào năm 1964 có nội dung ủng hộ Barry Goldwater. Năm 1966, Reagan thắng cử chức thống đốc bang California và giữ vị trí này tới năm 1975. Ông đã suýt thắng cử với số phiếu sít sao để được đề cử là đại biểu của Đảng Cộng hòa ra tranh cử tổng thống vào năm 1976 trước khi được chính thức đề cử năm 1980 và tiếp tục thắng cử tổng thống trong cuộc tranh đua với tổng thống đương nhiệm Jimmy Carter.
Tinh thần lạc quan không hề nao núng của Tổng thống Reagan cùng khả năng biết ca tụng những thành tựu và những cảm hứng của dân chúng Mỹ đã không hề thuyên giảm trong suốt hai nhiệm kỳ ông làm tổng thống. Đối với nhiều người Mỹ, Reagan là một vị tổng thống đã đem lại sự bình yên và ổn định. Khi đứng trước micrô và ống kính của máy quay trong các buổi truyền hình, Reagan được mệnh danh là Người có kỹ năng giao tiếp xuất chúng.
Nhắc lại một câu nói có từ thế kỷ XVII của lãnh tụ John Winthrop, Reagan tuyên bố với toàn thể nước Mỹ rằng Hoa Kỳ là thành phố ánh sáng trên ngọn đồi, là đất nước được Chúa ban cho sứ mệnh phải bảo vệ thế giới chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản.
Reagan tin rằng, chính quyền đã can thiệp quá sâu vào đời sống của người dân Mỹ. Ông muốn cắt giảm những chương trình mà ông cho rằng nước Mỹ không cần đến và ông thấy rằng những chương trình đó là lãng phí, gian trá và lạm dụng. Reagan thúc đẩy chương trình phi điều tiết vốn đã được Jimmy Carter khởi xướng trước đó. Reagan cũng cố gắng xóa bỏ nhiều quy định gây ảnh hưởng xấu tới người tiêu dùng, đến chỗ làm việc và môi trường. Theo ông, những quy định này đều không hiệu quả, gây đắt đỏ và ngăn cản tăng trưởng kinh tế.
Reagan cũng đồng ý với quan điểm của nhiều nhà chính trị bảo thủ cho rằng luật pháp cần phải được áp dụng một cách hà khắc để ngăn ngừa tội phạm. Ngay sau khi trở thành tổng thống, ông đã phải đối mặt với một cuộc đình công trên toàn quốc của những nhân viên kiểm soát không lưu Mỹ. Mặc dù hành động này đã bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng trước đó, những cuộc đình công như vậy thường vẫn được cho qua. Khi những nhân viên kiểm soát không lưu từ chối không chịu quay lại làm việc, tổng thống đã ra lệnh sa thải tất cả những người trong số họ. Vài năm sau đó, hệ thống này đã được thiết lập lại với những nhân viên mới.
NỀN KINH TẾ NHỮNG NĂM 1980
Chương trình đối nội của Tổng thống Reagan bắt nguồn từ quan điểm cho rằng đất nước sẽ thịnh vượng hơn nếu sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân được cởi trói. Lý thuyết kinh tế học chỉ đạo quan điểm này là lý thuyết trọng cung. Lý thuyết này cho rằng việc cung cấp nhiều loại hàng hóa và dịch vụ sẽ khiến đầu tư kinh doanh tăng lên và do đó, là con đường ngắn nhất dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện chủ trương này, chính quyền Reagan cho rằng việc cắt giảm thuế sẽ làm tăng đầu tư xây dựng cơ bản và lợi nhuận của các doanh nghiệp, do đó, một mức thuế thấp hơn đánh vào những khoản thu nhập doanh nghiệp lớn này sẽ giúp cho thu nhập của chính phủ cũng tăng lên.
Mặc dù số đảng viên Cộng hòa ở Thượng viện là rất ít, còn Hạ viện thì do Đảng Dân chủ kiểm soát, song Tổng thống Reagan đã thành công trong năm cầm quyền đầu tiên của mình do những chương trình kinh tế mà ông đã đề ra, bao gồm việc cắt giảm thuế 25% theo từng giai đoạn trong hơn ba năm cho các cá nhân. Chính quyền cũng đã gia tăng chi phí quốc phòng nhằm hiện đại hóa quân đội Mỹ và nhằm đối phó với mối đe dọa mà nước Mỹ cảm thấy đang ngày càng tăng từ phía Liên Xô.
Dưới thời Paul Volcker, việc Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất một cách chóng mặt đã làm trầm trọng hơn nạn lạm phát vốn đã bắt đầu từ cuối những năm 1970. Suy thoái đã chạm đáy vào năm 1982, với mức lãi suất chính lên tới gần 20% và kinh tế thì suy giảm nghiêm trọng. Trong năm đó, tổng sản phẩm quốc nội (GNP) thực tế đã giảm 2%; tỷ lệ thất nghiệp tăng lên gần đến mức 10% và gần 1/3 các nhà máy công nghiệp Mỹ rơi vào tình trạng trì trệ. Suốt miền Trung Tây, các công ty lớn như General Electric và International Harvester đều phải sa thải công nhân. Giá dầu mỏ lên cao khủng khiếp cũng góp phần khiến kinh tế suy thoái. Các đối thủ cạnh tranh của Mỹ là Đức và Nhật Bản đã chiếm được thị phần lớn hơn trong thương mại quốc tế, và người Mỹ đã tiêu dùng nhiều hơn những hàng hóa được sản xuất từ nước ngoài.
Nông dân cũng phải trải qua một giai đoạn khó khăn. Vào những năm 1970, nông dân Mỹ đã từng trợ giúp cho ấn Độ, Trung Quốc, Liên Xô và các nước khác đang bị mùa màng thất bát và phải vay nặng lãi để mua đất đai và phát triển sản xuất. Nhưng sự tăng giá của dầu mỏ đã đẩy chi phí lên cao và sự suy sụp bất ngờ của kinh tế thế giới năm 1980 đã làm giảm nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp. Sản lượng trong nông nghiệp giảm mạnh vì sản xuất chỉ tập trung vào tay một số nhỏ chủ trại có quy mô lớn. Tầng lớp nông dân nhỏ đã phải đối mặt với những khó khăn lớn để tồn tại.
Ngân sách quân sự gia tăng - cộng với việc cắt giảm thuế và chi tiêu của chính phủ cho y tế tăng lên - đã khiến cho chi tiêu của chính phủ vượt quá xa những khoản thu hàng năm của chính phủ. Một số nhà phân tích cho rằng các khoản thâm hụt này là do chiến lược quản lý có chủ ý nhằm ngăn chặn những khoản chi phí quốc nội ngày càng gia tăng của phe Dân chủ. Tuy nhiên cả phái Dân chủ lẫn phái Cộng hòa trong Quốc hội đều từ chối cắt giảm các khoản chi phí này. Từ 74 tỷ đô-la năm 1980, mức thâm hụt đã tăng lên 221 tỷ đô-la năm 1986 trước khi quay trở lại mức 150 tỷ đô-la năm 1987.
Nhưng cuộc suy thoái kinh tế sâu sắc vào đầu những năm 1980 đã kiềm chế thành công nạn lạm phát phi mã bắt đầu dưới thời Carter. Hơn nữa, giá dầu mỏ lại bắt đầu giảm mạnh khiến Reagan càng vững tin hơn khi quyết định xóa bỏ kiểm soát giá cả và trợ cấp khí đốt. Vào mùa thu năm 1984, nền kinh tế đã hồi phục khiến Reagan yên tâm triển khai chiến dịch vận động tái tranh cử của mình với khẩu hiệu Bình minh lại đến trên đất Mỹ. Ông đã đánh bại đối thủ Đảng Dân chủ là cựu Thượng nghị sỹ và Phó Tổng thống Walter Mondale với số phiếu áp đảo.
Hoa Kỳ đã bước vào một trong những giai đoạn tăng trưởng kinh tế bền vững và lâu dài nhất kể từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Các khoản chi tiêu của người tiêu dùng đã tăng lên do nhà nước cắt giảm thuế. Thị trường chứng khoán tăng trưởng vì nó phản ánh một không khí tiêu dùng lạc quan. Trong suốt năm năm sau khi kinh tế được phục hồi, tổng sản phẩm quốc dân đã tăng 4,2% một năm. Tỷ lệ lạm phát hàng năm duy trì ở mức từ 3-5% trong những năm từ 1983 đến 1987, ngoại trừ năm 1986, tỷ lệ này đã giảm tới dưới 2% - đạt mức thấp nhất trong suốt những thập niên vừa qua. Tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng bền vững trong suốt những năm 1980. Từ năm 1982 đến năm 1987, nền kinh tế Mỹ đã tạo ra hơn 13 triệu việc làm mới.
Kiên định trong cam kết của mình về việc cắt giảm thuế, trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, Reagan đã ký ban hành một biện pháp cải cách thuế có quy mô rộng rãi nhất trên toàn liên bang kể từ 75 năm nay. Với sự ủng hộ rộng rãi của cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, chính sách thuế mới này đã cắt giảm thuế thu nhập, đơn giản hóa các mức thuế và khắc phục được những lỗ hổng trong quản lý thuế.
Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng đáng kể này là do các khoản thâm hụt chi tiêu. Hơn nữa, các khoản nợ quốc gia đã tăng lên gấp ba và còn xa mới được ổn định nhờ tăng trưởng kinh tế mạnh. Sự tăng trưởng này phần lớn đến từ các ngành dịch vụ kỹ năng cao và các ngành kỹ thuật. Nhiều gia đình nghèo và tầng lớp trung lưu không phát đạt được nhiều như vậy. Đồng thời, mặc dù lớn tiếng kêu gọi tự do thương mại, nhưng chính quyền Reagan đã gây áp lực với Nhật Bản để buộc quốc gia này chấp nhận một hạn ngạch tự nguyện đối với việc xuất khẩu mặt hàng ôtô sang thị trường Mỹ.
Nền kinh tế Mỹ lại một lần nữa bị chao đảo ngày 19/10/1987 - “Ngày thứ Hai đen tối" trong lịch sử thị trường chứng khoán - khi thị trường này sụt giá tới 22,6% chỉ trong một ngày. Nguyên nhân của sự đổ vỡ này là do các khoản thâm hụt thương mại quốc tế lớn của Hoa Kỳ, các khoản thâm hụt trong ngân sách liên bang, các khoản nợ lớn của tư nhân và doanh nghiệp, và các kỹ thuật buôn bán chứng khoán được máy tính hóa cho phép bán chứng khoán và các hợp đồng tương lai ngay lập tức. Tuy nhiên, mặc dù sự đổ vỡ này gợi lại những ký ức về năm 1929, nhưng thực ra nó chỉ là một sự kiện tạm thời và có rất ít ảnh hưởng. Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục với tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 5,2% vào tháng 6/1988 - mức thấp nhất trong 14 năm qua.
CÁC HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO
Trong chính sách đối ngoại, Reagan luôn cố gắng để nước Mỹ đóng vai trò quyết định trong các công việc quốc tế. Lần đầu tiên, ông đã tiến hành thử nghiệm vai trò này ở khu vực Trung Mỹ. Hoa Kỳ đã trợ giúp kinh tế và huấn luyện quân sự cho El Salvador khi các du kích nổi loạn đe dọa lật đổ chính phủ nước này. Hoa Kỳ cũng tích cực ủng hộ một chính phủ được bầu lên một cách dân chủ nhưng những nỗ lực này chỉ thành công phần nào. Sự trợ giúp của Hoa Kỳ đã giúp El Salvador ổn định chính phủ, nhưng mức độ bạo lực ở đất nước này vẫn không suy giảm. Cuối cùng, một hiệp định hòa bình cũng đã được ký kết vào đầu năm 1992.
Chính sách của Hoa Kỳ đối với Nicaragua gây ra nhiều tranh luận hơn. Năm 1979, những người cách mạng tự xưng là các chiến sỹ Sandinista đã lật đổ chế độ Somoza cánh hữu và thành lập một chế độ thân Cuba và Liên Xô. Mọi nỗ lực chấn chỉnh tại khu vực này đều đã thất bại, do đó, chính quyền Mỹ đã chuyển sang ủng hộ lực lượng kháng chiến chống lại Sandinista hay còn gọi là lực lượng Contras.
Tiếp theo một cuộc tranh luận chính trị căng thẳng về chính sách ngoại giao này, Quốc hội đã chấm dứt toàn bộ trợ giúp quân sự cho lực lượng Contras vào tháng 10/1984. Nhưng sau đó, dưới áp lực của chính phủ, Quốc hội đã thay đổi quyết định vào mùa thu năm 1986 và thông qua một khoản trợ giúp quân sự trị giá 100 triệu đô-la cho lực lượng này. Tuy nhiên, thất bại trên chiến trường, những lời chỉ trích vi phạm nhân quyền và việc khám phá ra rằng các khoản tiền có được do bí mật bán vũ khí cho Iran đã được chuyển sang cho lực lượng Contras đã làm suy giảm sự ủng hộ về chính trị trong Quốc hội đối với việc tiếp tục các khoản trợ giúp quân sự này.
Sau này, chính quyền của Tổng thống George H. W. Bush, người kế nhiệm Reagan năm 1989 đã bãi bỏ bất kỳ sự ủng hộ nào nhằm giúp đỡ quân sự cho lực lượng Contras. Chính phủ Bush cũng gây áp lực để tiến hành tuyển cử tự do và ủng hộ liên minh chính trị đối lập. Liên minh này đã thắng cử với một kết quả bất ngờ gây nhiều sửng sốt, đánh bại những người Sandinista vào tháng 2/1990.
Chính quyền của Tổng thống Reagan đã may mắn hơn khi được chứng kiến sự trở lại của nền dân chủ tại các quốc gia còn lại ở châu Mỹ La-tinh, từ Guatemala tới Argentina. Sự xuất hiện của các chính phủ được bầu lên một cách dân chủ không chỉ hạn chế ở châu Mỹ La-tinh; ở châu Á, chiến dịch chính quyền của nhân dân ở Corazon Aquino đã lật đổ chế độ độc tài của Ferdinand Marcos và các cuộc bầu cử ở Hàn Quốc đã chấm dứt chế độ quân phiệt đã tồn tại hàng mấy chục năm ở nước này.
Trái lại, Nam Phi vẫn tỏ ra không chịu thỏa hiệp trước những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm khuyến khích sự chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc A-pác-thai qua một chính sách gây nhiều tranh cãi về "một sự can thiệp có tính xây dựng" và thông qua một nền ngoại giao lặng lẽ cùng với sự ủng hộ cải cách của dân chúng. Vào năm 1986, thất vọng vì không có bất kỳ sự tiến bộ nào, Quốc hội Mỹ đã gạt bỏ quyền phủ quyết của Reagan và đưa ra một loạt các biện pháp trừng phạt kinh tế chống Nam Phi. Tháng 2/1990, Tổng thống Nam Phi F.W de Klert đã công bố trả tự do cho Nelson Mandela và bắt đầu dần dần chấm dứt chủ nghĩa phân biệt chủng tộc A-pác-thai.
Mặc dù luôn bày tỏ thẳng thắn tinh thần chống cộng, nhưng chính quyền Reagan đã rất hạn chế sử dụng trực tiếp các lực lượng quân sự. Ngày 25/10/1983, các lực lượng quân đội Mỹ đã đổ bộ lên đảo Grenada thuộc vùng biển Caribê sau lời kêu gọi giúp đỡ khẩn cấp của các nước láng giềng. Hành động này diễn ra sau vụ ám sát Thủ tướng Grenada thuộc cánh tả do những thành viên trong chính đảng thân Mác-xít của chính ông tiến hành. Sau một thời gian ngắn giao chiến, các toán quân Mỹ đã bắt giữ hàng trăm chiến binh Cuba, xây dựng lực lượng và ngăn chặn trợ giúp vũ khí từ Liên Xô. Tháng 12/1983, những đơn vị chiến đấu cuối cùng của quân đội Mỹ đã rời Grenada, và đất nước này đã tổ chức các cuộc bầu cử dân chủ một năm sau đó.
Tuy nhiên, ở Trung Đông, tình hình tỏ ra khó khăn hơn nhiều. Sự xuất hiện các lực lượng quân đội Mỹ ở Li-băng nơi Hoa Kỳ đang cố gắng giúp đỡ một chính phủ thân phương Tây nhưng lại tỏ ra yếu đuối và ôn hòa, đã có một kết cục bi thảm khi 241 lính thủy đánh bộ Mỹ đã chết trong một cuộc đánh bom khủng bố tháng 10/1983. Tháng 4/1986, các máy bay thuộc lực lượng hải quân và không quân Mỹ đã tiêu diệt các mục tiêu ở Tripoli và Benghazi của Libi nhằm trả đũa các cuộc tấn công của Libi.
ở Vịnh Ba Tư, sự đổ vỡ trước đây trong quan hệ Mỹ - Iran và cuộc chiến tranh Iran - Irắc đã gây dựng tiền đề cho các hoạt động của hải quân Mỹ trong khu vực. Lúc đầu, Hoa Kỳ đáp lại yêu cầu từ phía Cô-oét muốn bảo vệ đội tàu chở dầu của mình, song cuối cùng, với các chiến hạm của Hải quân Mỹ đến từ Tây Âu, Hoa Kỳ đã chiếm giữ các con đường hàng hải sống còn của các đoàn tàu chở dầu và tàu thuyền của các nước trung lập khác đi lại trên vùng Vịnh.
Cuối năm 1986, người Mỹ đã phát hiện ra chính quyền đã bí mật bán vũ khí cho Iran nhằm mục đích hàn gắn lại quan hệ ngoại giao với chính quyền Hồi giáo cực đoan và nhằm giải phóng cho các con tin Mỹ bị bắt giữ tại Li-băng do các tổ chức tôn giáo mà Iran kiểm soát. Các cuộc điều tra này cũng kết luận rằng số tiền có được từ bán vũ khí đã được cấp cho lực lượng Contras ở Nicaragoa trong thời gian Quốc hội đã ra sắc lệnh cấm mọi trợ giúp quân sự cho lực lượng này.
Những phiên điều trần sau đó về lực lượng Contras của Iran trước ủy ban hỗn hợp của Thượng viện và Hạ viện đã điều tra về khả năng vi phạm pháp luật và về vấn đề lớn hơn là xác định những lợi ích quốc tế trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ tại Trung Đông và Trung Mỹ. Trên nghĩa rộng thì những phiên điều trần này chính là một cuộc tranh luận tại Quốc hội liên quan đến những bí mật của chính phủ và về quyền hạn của tổng thống so với quyền hạn của quốc hội trong việc tiến hành các hoạt động ngoại giao. Không giống như vụ tai tiếng Watergate 14 năm trước đây, ủy ban này thấy rằng không có cơ sở nào để buộc tội tổng thống và không có kết luận cụ thể gì về các vấn đề gây tranh cãi kéo dài này.
QUAN HỆ XÔ-MỸ
Trong mối quan hệ với Liên Xô, chính sách mà Tổng thống Regan đã tuyên bố là một chính sách hòa bình thông qua sức mạnh. Ông đã tuyên bố rõ ràng thái độ đối nghịch của mình đối với quốc gia này. Hai sự kiện đã sớm xảy ra làm quan hệ Xô-Mỹ thêm phần căng thẳng: đó là sự kiện Phong trào lao động Đoàn kết ở Ba Lan tháng 12/1981 và việc tên lửa của Liên Xô đã khiến 269 người chết trong chuyến bay dân sự số 007 của hãng hàng không Hàn Quốc ngày 1/9/1983. Hoa Kỳ cũng đã lên án việc Xô-viết tham gia vào lãnh thổ Afghanistan và tiếp tục trợ giúp quân sự đã có từ thời Carter cho quân kháng chiến Mujahedeen ở Afghanistan.
Trong nhiệm kỳ đầu của Reagan, Chính phủ của ông đã chi những khoản tiền lớn chưa từng có cho việc tăng cường lực lượng vũ trang, bao gồm việc chuyển các tên lửa hạt nhân tầm trung đến châu Âu để đối phó lại việc Liên Xô triển khai các tên lửa tương tự. Vào ngày 23/3/1983, trong một cuộc tranh luận chính sách nảy lửa nhất trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống của mình, Reagan đã công bố chương trình nghiên cứu về Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (SDI) nhằm tìm ra các công nghệ tiên tiến như tia laser và các đầu đạn tên lửa năng lượng cao để phòng ngự chống lại các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Mặc dù nhiều nhà khoa học đã tỏ ý nghi ngờ tính khả thi về mặt công nghệ của SDI và các nhà kinh tế đã chỉ ra các khoản chi phí vô cùng lớn, song chính phủ vẫn tiếp tục triển khai dự án này.
Sau khi tái đắc cử năm 1984, Reagan đã giảm nhẹ lập trường cứng rắn của mình về kiểm soát vũ khí. Matx-cơ -va cũng đã tỏ ra sẵn sàng thỏa hiệp, một phần vì nền kinh tế Liên Xô đã dành một phần lớn hơn nhiều trong tổng sản phẩm quốc dân cho quân sự so với tỉ lệ chi quân sự của Mỹ. Nhà lãnh đạo Liên Xô, Mikhail Gorbachev, sợ rằng nếu tiếp tục tăng tỉ lệ chi cho quân sự này thêm nữa thì kế hoạch tự do hóa nền kinh tế Liên Xô sẽ bị ảnh hưởng.
Tháng 11/1985, Reagan và Gorbachev đã đồng ý trên nguyên tắc về việc giảm 50% vũ khí hạt nhân quốc phòng chiến lược và tiến tới một hiệp định tạm thời về các loại vũ khí hạt nhân tầm trung. Tháng 12/1987, Tổng thống Reagan và Tổng Bí thư Gorbachev đã ký Hiệp ước về Vũ khí hạt nhân Tầm trung (INF), chuẩn bị cho việc phá hủy toàn bộ loại vũ khí tầm trung này. Sau đó, đối với Hoa Kỳ, Liên Xô đã không còn là một đối thủ đáng sợ nữa. Reagan có thể được khen ngợi vì đã giúp cho Chiến tranh Lạnh nguội đi đáng kể, nhưng khi nhiệm kỳ của ông kết thúc, gần như không ai có thể nhận ra được Liên bang Xô-viết đã trở nên lung lay đến mức nào.
NHIỆM KỲ TỔNG THỐNG CỦA GEORGE H.W. BUSH
Tổng thống Reagan trở nên đặc biệt được lòng dân vào thời gian cuối nhiệm kỳ thứ hai, nhưng theo các quy định của Hiến pháp Mỹ thì ông không thể ra tranh cử một lần nữa vào năm 1988. ứng cử viên của Đảng Cộng hòa, Phó Tổng thống George Herbert Walker Bush đã được bầu làm Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ.
Bush đã vận động tranh cử bằng việc hứa với các cử tri là sẽ tiếp tục duy trì sự thịnh vượng mà Reagan đã mang lại cho nước Mỹ. Đồng thời, ông cũng chứng minh rằng khả năng chuyên môn của ông có thể hỗ trợ một nền quốc phòng mạnh mẽ một cách đáng tin cậy hơn ứng cử viên Michal Dukakis của Đảng Dân chủ. Ông cũng hứa hẹn sẽ phấn đấu cho một nước Mỹ tốt đẹp và lịch lãm hơn. Dukakis, Thống đốc bang Massachuset, đã tuyên bố rằng những người Mỹ kém may mắn hơn đang bị tổn thương về kinh tế và chính phủ cần phải giúp đỡ những người này bằng cách kiểm soát tốt các món nợ của Liên bang và các chi phí cho quốc phòng. Tuy nhiên dân chúng bị thuyết phục bởi thông điệp kinh tế của Bush: không có các sắc thuế mới. Trong kết quả bỏ phiếu, Bush đã thắng cử với tỷ lệ phiếu bầu là 54% so với 46% phiếu phổ thông.
Trong năm đầu tiên trên cương vị tổng thống, Bush đã tiếp tục chương trình tài khóa bảo thủ, theo đuổi các chính sách mà chính phủ của Reagan đã tiến hành về thuế, về chi tiêu và về các khoản nợ. Nhưng vị tổng thống mới đã sớm nhận thấy rằng ông bị mắc kẹt giữa các khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ và luật giảm thâm hụt. Cắt giảm chi tiêu dường như là cần thiết và Bush chỉ có rất ít cơ hội để đề xuất những khoản chi ngân sách mới.
Chính quyền Bush đã thông qua các sáng kiến chính sách về các vấn đề mà không yêu cầu các khoản chi lớn từ ngân sách. Do đó, vào tháng 11/1990, Bush đã ký một dự luật đưa ra những tiêu chuẩn liên bang về khói bụi đô thị, khí thải ôtô, nhiễm độc không khí và mưa axít, nhưng phần lớn các chi phí là do những cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm phải chi trả. Ông cũng đã phê chuẩn luật yêu cầu sự tiếp cận cho những người tàn tật, nhưng các chi phí để cải tạo chỗ ở và chỗ làm việc cho phù hợp với việc đi lại bằng xe lăn không được lấy từ ngân sách liên bang. Tổng thống cũng bắt đầu triển khai chiến dịch khuyến khích tinh thần tự nguyện mà ông ca tụng là "một ngàn điểm sáng".
NGÂN SÁCH VÀ CÁC KHOẢN THÂM HỤT
Tuy nhiên, những nỗ lực của Chính quyền Bush nhằm kiểm soát được các khoản thâm hụt ngân sách lại gặp rất nhiều khó khăn. Một căn nguyên của khó khăn đó là cuộc khủng hoảng về tiết kiệm và cho vay. Các ngân hàng tiết kiệm - trước kia được quản lý rất chặt chẽ với lãi suất tiết kiệm thấp đối với dân thường - nay được phi điều tiết, cho phép các ngân hàng có thể cạnh tranh khốc liệt hơn nhờ trả lãi suất cao hơn nhưng cũng khiến rủi ro của các khoản vay trở nên lớn hơn. Việc nâng mức bảo hiểm tiền gửi của Chính phủ đã làm giảm cầu của người tiêu dùng đối với các tổ chức tiền gửi có uy tín. Gian lận, quản lý tồi, cùng những xu hướng sa sút trong kinh tế đã dẫn tới những trường hợp không có khả năng trả nợ và phá sản trong những tổ chức tiết kiệm này (tổ chức tiết kiệm là một thuật ngữ chung để chỉ những tổ chúc hướng về người tiêu dùng như những hiệp hội tiết kiệm và cho vay, hay các ngân hàng tiết kiệm). Cho đến năm 1993, tổng phí tổn của việc bán và đóng cửa những tổ chức tiết kiệm bị phá sản là một con số khiến người ta phải choáng váng: gần 525 tỷ đô-la.
Tháng 1/1990, Tổng thống Bush đã đệ trình bản đề xuất ngân sách của ông lên Quốc hội. Phe Dân chủ cho rằng những kế hoạch về ngân sách của chính phủ là quá lạc quan, rằng việc đáp ứng những yêu cầu trong luật giảm thâm hụt sẽ đòi hỏi phải tăng thuế và cắt giảm mạnh các chi phí cho quốc phòng. Tháng 6 năm đó, sau nhiều cuộc đàm phán kéo dài, Tổng thống Bush đã đồng ý tăng thuế. Đồng thời, vào năm 1991, sự kết hợp giữa suy thoái kinh tế, những chi phí phát sinh từ việc cứu trợ các hoạt động kinh doanh tiết kiệm và cho vay, những khoản chi phí về chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng trong các chương trình chăm sóc và trợ giúp y tế đã vô hiệu hóa những biện pháp nhằm giảm thâm hụt ngân sách và gây ra một khoản thâm hụt không kém phần nghiêm trọng so với khoản thâm hụt vào năm trước.
KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẠNH
Khi Bush trở thành Tổng thống, Liên bang Xô-viết đã đang đứng bên bờ vực của sự đổ vỡ. Các nỗ lực của Gorbachev nhằm mở cửa nền kinh tế Liên Xô tỏ ra lúng túng. Năm 1989, các chính quyền cộng sản ở Đông Âu lần lượt đổ vỡ, sau đó thì người ta thấy rõ là Liên Xô sẽ không đưa quân đến để giúp đỡ họ khôi phục chính quyền. Vào giữa năm 1991, những người kiên định đã thử làm một cuộc đảo chính, nhưng đã bị Boris Yeltsin, Tổng thống Nga, làm cho thất bại. Vào cuối năm đó, Yeltsin, lúc đó đã rất có thế lực, đã buộc Liên bang Xô-viết phải giải tán.
Chính quyền Bush là người trung gian cho việc kết thúc Chiến tranh Lạnh, hợp tác chặt chẽ với Gorbachev và Yeltsin. Đồng thời nước Mỹ cũng chủ trì các cuộc thương thuyết để thống nhất Đông Đức và Tây Đức (tháng 9/1990), đạt được thỏa thuận về cắt giảm vũ khí ở châu Âu (tháng 11/1990), và cắt giảm hàng loạt các kho vũ khí nguyên tử (tháng 7/1991). Sau khi Liên bang Xô-viết tan rã, Hoa Kỳ và Liên bang Nga mới thành lập đã thỏa thuận sẽ hủy bỏ tất cả các loại tên lửa mang nhiều đầu đạn hạt nhân trong thời gian 10 năm.
Việc hủy bỏ các vũ khí hạt nhân và sự lo ngại hiện hữu hơn bao giờ hết về sự phổ biến vũ khí hạt nhân giờ đây đã thực sự xóa bỏ nguy cơ về xung đột nguyên tử giữa Washington và Matx-cơ -va.
CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH
Sự hoan hỷ do Chiến tranh Lạnh kết thúc đã bị lu mờ đáng kể bởi sự kiện Irắc xâm lược đất nước Cô-oét nhỏ bé ngày 2/8/1990. Irắc, dưới thời Saddam Hussein và Iran dưới chế độ Hồi giáo cực đoan mới nổi lên thành hai cường quốc quân sự và dầu mỏ tại khu vực Vùng Vịnh Ba Tư. Hai quốc gia này đã có mắc mớ với Hoa Kỳ trong những năm 1980. So với Iran thì Irắc ít đối địch với Mỹ hơn và đã nhận được một số trợ giúp từ chính quyền Reagan và Chính quyền Bush. Việc Irắc chiếm đóng Cô-oét và hiểm họa mà Irắc đặt ra đối với ảrập Xêút chỉ trong chốc lát đã làm thay đổi mọi tính toán ngoại giao của Hoa Kỳ.
Tổng thống Bush đã lên án mạnh mẽ hành động của Irắc và yêu cầu Irắc lập tức rút quân vô điều kiện. Đồng thời, ông cũng gửi ngay một lực lượng quân đội đông đảo đến Trung Đông. Tổng thống cũng đã tập hợp một trong những khối đồng minh quân sự và chính trị đặc biệt nhất trong lịch sử hiện đại bao gồm các lực lượng quân sự từ châu Á, châu Âu, châu Phi và từ chính các nước Trung Đông.
Trong nhiều ngày và nhiều tuần sau khi xảy ra cuộc xâm lược, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã thông qua 12 nghị quyết lên án cuộc xâm lược của Irắc và áp đặt những biện pháp trừng phạt quy mô lớn về kinh tế đối với quốc gia này. Vào ngày 29/11, Hội đồng Bảo an đã phê chuẩn việc quân đội các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc sử dụng lực lượng vũ trang nếu Irắc không rút quân khỏi Cô-oét trước ngày 15/1/1991. Liên bang Xô-viết của Gorbachev - một trong những nhà cung cấp vũ khí chính cho Irắc - đã không làm gì để bảo vệ vị khách hàng cũ của mình.
Bush cũng phải đối đầu với các vấn đề lớn liên quan đến hiến pháp. Hiến pháp Hoa Kỳ trao cho cơ quan lập pháp quyền được tuyên chiến. Tuy nhiên, vào nửa sau thế kỷ XX, Hoa Kỳ đã dính líu vào Việt Nam và Triều Tiên mà không tuyên bố chính thức chiến tranh và chỉ được sự đồng ý rất mơ hồ từ cơ quan lập pháp là Quốc hội. Vào ngày 12/1/1991, ba ngày trước khi đến hạn rút quân cuối cùng mà Liên Hợp Quốc đã đưa ra, Quốc hội đã cho phép Tổng thống Bush có được thẩm quyền mà ông đã vận động - thẩm quyền tiến hành chiến tranh rõ ràng và mạnh mẽ nhất được trao cho một vị tổng thống trong suốt gần nửa thế kỷ.
Liên quân Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Italia, ảrập Xêút, Cô-oét và các quốc gia khác đã thành công trong việc giải phóng Cô-oét bằng một chiến dịch không kích phá hủy do Hoa Kỳ chỉ huy kéo dài hơn một tháng. Tiếp theo chiến dịch này là một cuộc tấn công ồ ạt vào Cô-oét và Irắc bằng các lực lượng thiết giáp và bộ binh đổ bộ bằng đường không. Với tốc độ, tính cơ động và hỏa lực vượt trội của mình, liên quân đã áp đảo lực lượng quân đội Irắc trong một chiến dịch tấn công trên bộ kéo dài chỉ trong vòng 100 giờ.
Tuy nhiên, chiến thắng vẫn chưa trọn vẹn và liên quân vẫn chưa thấy hài lòng. Nghị quyết của Liên Hợp Quốc chỉ kêu gọi lực lượng liên quân đánh đuổi Irắc ra khỏi lãnh thổ Cô-oét. Song Saddam Hussein vẫn cầm quyền và đàn áp tàn bạo người Kurd ở miền Bắc và người Shiite ở miền Nam, cả hai dân tộc này đều được Hoa Kỳ trợ giúp trong cuộc khởi nghĩa của họ. Hàng trăm giếng dầu bị quân Irắc chủ tâm đốt cháy đã cháy cho đến tận tháng 11 mới được dập tắt hết. Chính quyền Saddam cũng toan tính cản trở các thanh tra của Liên Hợp Quốc đến Irắc theo các nghị quyết của Hội đồng Bảo an để xác định vị trí và phá hủy các loại vũ khí giết người hàng loạt của Irắc, bao gồm cả các thiết bị hạt nhân hiện đại hơn người ta nghĩ trước đó và những kho vũ khí hóa học khổng lồ.
Chiến tranh Vùng Vịnh đã khiến Hoa Kỳ có thể thuyết phục được các quốc gia ảrập, Israel và đoàn đại biểu Palestin bắt đầu các cuộc thương lượng trực tiếp nhằm giải quyết các vấn đề phức tạp và có quan hệ đan xen lẫn nhau để cuối cùng có thể tiến tới một nền hòa bình lâu dài trong khu vực. Các cuộc hội đàm đã bắt đầu ở Madrid, Tây Ban Nha ngày 30/10/1991. Các cuộc đàm phán bí mật ở Na Uy đã dẫn tới một Thỏa thuận lịch sử giữa Israel và Tổ chức Giải phóng Palestin được ký tại Nhà Trắng ngày 13/9/1993.
PANAMA VÀ HIỆP ĐỊNH MẬU DỊCH TỰ DO BẮC MỸ (NAFTA)
Tổng thống cũng đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của hai đảng tại Quốc hội cho việc tạm chiếm đóng Panama ngày 20/12/1989, nhằm phế truất nhà độc tài - Tướng Manuel Antonio Noriega. Trong những năm 1980, tệ nghiện hút côcain đã làm lan truyền các bệnh dịch, do vậy Tổng thống Bush đã tuyên bố triển khai cuộc chiến chống ma tuý và coi đây là trung tâm của chương trình quốc nội của mình. Hơn nữa, Noriega, một nhà độc tài đặc biệt khét tiếng, đã công khai tuyên bố thái độ chống Mỹ của mình. Sau khi tị nạn ở Sứ quán Vatican, Noriega đã tự nộp mình cho chính quyền Hoa Kỳ và sau đó ông đã bị tòa án Liên bang Mỹ xét xử và kết án ở Miami, bang Florida với tội danh buôn lậu ma túy và tiền giả.
Trong lĩnh vực kinh tế, Chính quyền Bush đã đàm phán Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) với Mexico và Canada. Hiệp định này sẽ được phê chuẩn sau một cuộc tranh luận dữ dội trong năm đầu tiên của Chính quyền Clinton.
CÁC ỨNG CỬ VIÊN ĐỘC LẬP VÀ ĐẢNG THỨ BA
Hoa Kỳ là một quốc gia có hệ thống hai đảng phái. Trên thực tế, quả là như vậy: hoặc là người của Đảng Dân chủ hoặc là người của Đảng Cộng hòa cai quản Nhà Trắng suốt từ năm 1852 đến nay. Tuy nhiên, cùng thời gian đó, ở nước Mỹ đã nảy sinh đảng thứ ba và các đảng nhỏ. Chẳng hạn, 58 đảng đã có số phiếu bầu ít nhất là bằng tổng số phiếu bầu cử của một bang trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992. Trong số các đảng này có những đảng ít tiếng tăm như Đảng Apathy, Đảng Looking back, Đảng New Mexico, Đảng các công dân độc lập Tish và Đảng những người đóng thuế Vermont.
Các đảng thứ ba được tổ chức xung quanh một lĩnh vực đơn lẻ hay một hệ thống các lĩnh vực. Các đảng này có khuynh hướng hoạt động tiến bộ khi họ có được một vị lãnh đạo có tài. Vì việc tranh cử tổng thống là nằm ngoài tầm với nên phần lớn các đảng này đều cố gắng xây dựng một diễn đàn để tuyên truyền về mối quan tâm chính trị và xã hội của mình.
Theodore Roosevelt - cựu Tổng thống Mỹ, ứng cử viên thành công nhất của đảng thứ ba trong thế kỷ XX là người của Đảng Cộng hòa. Đảng Tiến bộ hay Đảng Hươu đực của ông đã giành được 27,4% phiếu bầu trong cuộc bầu cử năm 1912. Cánh tiến bộ của Đảng Cộng hòa, do mất tin tưởng với Tổng thống William Howard Taft, người mà Roosevelt đã cất công chọn lựa cẩn thận làm người kế nhiệm, đã thuyết phục Roosevelt cố gắng có được sự đề cử của đảng vào năm 1912. Ông đã làm được điều đó khi đánh bại Taft ở một loạt các vấn đề chủ chốt nhất. Tuy nhiên Taft là người quản lý bộ máy của đảng nên ông đã giành được quyền đề cử.
Những người ủng hộ Roosevelt khi đó liền từ bỏ Đảng Cộng hòa và thành lập Đảng Tiến bộ. Bằng việc tuyên bố mình khoẻ như Nai sừng (từ đó sinh ra tên dân gian của đảng này), Roosevelt đã vận động tranh cử theo một cương lĩnh nhằm điều chỉnh các doanh nghiệp lớn, ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ, đánh thuế thu nhập luỹ tiến, kênh đào Panama và bảo vệ môi trường. Nỗ lực của ông đã đủ để đánh bại Taft. Tuy vậy, bằng việc chia sẻ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa, chính ông lại giúp cho ứng cử viên Woodrow Wilson của Đảng Dân chủ thắng cử.
Phái xã hội
Đảng Xã hội đã đạt đỉnh cao vào năm 1912 sau khi đã đạt 6% số phiếu bầu phổ thông. ứng cử viên cao tuổi Eugene Debs giành được hơn 900.000 phiếu bầu vào năm đó, sau khi ông tuyên truyền ủng hộ quyền sở hữu tập thể trong các ngành giao thông và thông tin liên lạc, rút ngắn giờ làm và thực thi những dự án về việc làm. Bị bỏ tù do xúi giục nổi loạn vào thời Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, Debs đã vận động tranh cử ngay trong xà lim vào năm 1920.
Robert LaFollette
Một đảng viên khác của Đảng Tiến bộ - Thượng nghị sỹ Robert LaFollette đã giành được 16,6% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử năm 1924. Vốn là một người bảo vệ tích cực cho công nhân công nghiệp và nông dân, cũng là một người hăng hái chống lại tầng lớp chủ doanh nghiệp lớn, LaFollette là người đầu tiên đề xướng cho việc phục hồi phong trào của Đảng Tiến bộ sau Chiến tranh Thế giới Thứ nhất. Được nông dân và công nhân bỏ phiếu ủng hộ, cũng như được phe xã hội và những người còn lại của Đảng Hươu đực của Roosevelt tiếp sức, La Follette đã vận động tranh cử theo cương lĩnh có mục tiêu là quốc hữu hóa các công ty xe lửa và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Ông cũng ủng hộ mạnh mẽ việc tăng thuế đánh vào tầng lớp giàu có và ủng hộ quyền được đàm phán tập thể với giới chủ. Ông chỉ giành được số phiếu thuyết phục ở bang Wisconsin nơi quê hương ông mà thôi.
Henry Wallace
Đảng Tiến bộ lại tái lập vào năm 1948 bằng việc đề cử Henry Wallace, cựu Bộ trưởng Nông nghiệp và Phó Tổng thống dưới thời Franklin Roosevelt. Cương lĩnh năm 1948 của Wallace nhằm chống Chiến tranh Lạnh, Kế hoạch Marshall và giới chủ kinh doanh lớn. Ông cũng mở chiến dịch đấu tranh nhằm chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc chống lại người da đen và phụ nữ, ông ủng hộ một mức lương tối thiểu và kêu gọi bãi bỏ ủy ban của Hạ viện chịu trách nhiệm về các hoạt động của những người không phải là người Mỹ. Thất bại của ông trong việc từ chối công nhận Đảng Cộng sản Mỹ là đảng ủng hộ ông, đã làm xói mòn uy tín của ông. Ông đã đạt được hơn 2,4% số phiếu bầu phổ thông.
Đảng Dân chủ phân lập miền Nam
Giống như Đảng Tiến bộ, Đảng Các quyền bang hay Đảng Dân chủ phân lập miền Nam do Thống đốc bang Nam Carolina, Strom Thurmond lãnh đạo, mới nổi lên từ năm 1948. Sự đối lập của họ không phải bắt nguồn từ các chính sách về Chiến tranh Lạnh của Truman, mà do lập trường của ông về các quyền công dân. Tuy đảng này được xác định bằng các quyền của bang, song mục tiêu chính yếu của đảng là tiếp tục phân biệt chủng tộc và thi hành Luật Jim Crow là một đạo luật duy trì sự phân biệt này.
George Wallace
Những biến động có căn nguyên chủng tộc và xã hội vào những năm 1960 đã khiến cho George Wallace, một thống đốc bang miền Nam khác thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc, được cả nước Mỹ chú ý. Wallace đã thu hút được một lớp người ủng hộ mình thông qua những cuộc tấn công mang tính chất phân biệt màu da chống lại các quyền công dân, chống những người tự do và Chính phủ Liên bang. Bằng việc thành lập Đảng Độc lập Mỹ năm 1968, ông đã tiến hành cuộc vận động tranh cử của mình từ Montgomery, bang Alabama và giành được 13,5% tổng số phiếu bầu trên toàn nước Mỹ.
H. Ross Perot
Bất cứ đảng thứ ba nào cũng đều cố gắng tìm kiếm lợi ích cho mình từ sự không bằng lòng của dân chúng đối với hai đảng quan trọng nhất và với Chính phủ Liên bang. Tuy nhiên, trong lịch sử nước Mỹ, ít có lần nào mà tình cảm bất mãn ấy lại mạnh mẽ như trong cuộc bầu cử năm 1992. Một doanh nhân giàu có ở bang Texas, Perot đã truyền đi một thông điệp kinh tế về trách nhiệm thuế khóa và tài chính tới đông đảo người dân Mỹ. Do đả kích kịch liệt giới lãnh đạo đất nước và biết đơn giản hóa thông điệp về kinh tế của mình thành một công thức dễ hiểu nên Perot không gặp khó khăn trong việc thu hút sự chú ý của các phương tiện truyền thông. Tổ chức vận động tranh cử của ông mang tên Đoàn kết thì đứng vững, chủ yếu bao gồm các tình nguyện viên và được cấp vốn từ tài sản riêng của ông. Nhiều người đã khâm phục sản nghiệp giàu có của ông và ngưỡng mộ sự thành công trong kinh doanh của Perot cũng như sự tự do hành động và các khoản tiền đặc biệt hào phóng dành cho quỹ vận động tranh cử. Perot đã rút khỏi cuộc chạy đua tranh cử vào tháng 7. Bằng việc tái tham gia cuộc chạy đua một tháng trước ngày bầu cử, ông đã giành được 19 triệu phiếu bầu, một con số lớn nhất mà một ứng cử viên đảng thứ ba đã giành được từ trước đến nay và chỉ đứng thứ hai sau tỷ lệ phiếu bầu của Roosevelt năm 1912 nếu xét về phần trăm trên tổng số phiếu.
Chương 15: Cây cầu bắc sang thế kỷ XXI
"Hy vọng tốt nhất về hòa bình trên thế giới của chúng ta là mở rộng tự do trên toàn thế giới"
Tổng thống George W. Bush, 2005
Đối với phần lớn người Mỹ, thập niên 90 là giai đoạn của hòa bình, thịnh vượng và những tiến bộ nhanh chóng về công nghệ. Một số người cho rằng có được điều này là nhờ Cuộc cách mạng của Reagan và việc kết thúc Chiến tranh Lạnh. Một số người khác thì lại cho rằng đó là do Đảng Dân chủ một lần nữa cai quản Nhà Trắng. Trong giai đoạn này, đại đa số người Mỹ - nếu gạt chính trị sang một bên - đều khẳng định sự ủng hộ của họ đối với các giá trị gia đình truyền thống, thường được đặt trong niềm tin của họ. Người phụ trách chuyên mục của tờ New York Times đã bình luận rằng nước Mỹ đang có những sửa chữa về đạo đức khi có những biểu hiện của sự đổ vỡ xã hội, đã từng tăng trầm trọng trong những năm cuối cùng của thập niên 60 và 70, tạm chững lại trong thập niên 1980 giờ đây đang giảm dần.
Nếu không tính đến tình trạng tội phạm và các con số thống kê xã hội khác đang được cải thiện, thì có thể nói đời sống chính trị Mỹ đang bị chia rẽ mạnh mẽ với các tư tưởng chủ đạo và các tình cảm chính trị khác nhau. Hơn nữa, ngay sau khi đất nước bước vào thiên niên kỷ mới, cảm giác an toàn của thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh đã đổ vỡ hoàn toàn khi một cuộc tấn công khủng bố chưa từng có trước đây đã xảy ra và đặt đất nước vào một hoàn cảnh quốc tế mới đầy khó khăn.
CUỘC BẦU CỬ TỔNG THỐNG NĂM 1992
Khi cuộc bầu cử tổng thống năm 1992 đến gần thì người Mỹ đã cảm nhận được bản thân họ đang sống trong một thế giới biến đổi trên những phương diện mà họ đã không thể tưởng tượng nổi chỉ vào bốn năm trước đó. Những dấu mốc quan trọng quen thuộc của Chiến tranh Lạnh - từ Bức tường Berlin tới hệ thống tên lửa xuyên lục địa và những phi cơ ném bom luôn trong tình trạng báo động - đã lui vào dĩ vãng. Đông Âu đã độc lập, Liên bang Xô viết đã tan rã, nước Đức đã thống nhất, người ảrập Xêút và người Israel đã cùng ngồi vào bàn thương lượng trực tiếp, và nỗi lo sợ xung đột hạt nhân đã không còn nữa. Dường như một giai đoạn lịch sử vĩ đại đã khép lại và một giai đoạn lịch sử mới đang mở ra.
Tuy nhiên, trong nội bộ nước Mỹ thì dân chúng ít lạc quan hơn và họ phải đối mặt với một số vấn đề nghiêm trọng và quen thuộc. Hoa Kỳ lâm vào một cuộc suy thoái sâu sắc nhất kể từ những năm 1980. Tình trạng mất việc làm đã diễn ra rộng rãi trong tầng lớp công chức ở cương vị quản lý cấp trung chứ không chỉ diễn ra trong tầng lớp công nhân trong ngành chế tạo như trước đây. Thậm chí ngay cả khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi năm 1992 thì nền kinh tế Mỹ cũng chưa tăng trưởng một cách rõ ràng cho đến tận cuối năm. Hơn nữa, thâm hụt ngân sách vẫn tiếp tục gia tăng, chủ yếu do những khoản chi ngày càng lớn cho chăm sóc y tế.
Tổng thống Bush và Phó Tổng thống Dan Quayle đã dễ dàng được Đảng Cộng hòa tái đề cử. Về phía Đảng Dân chủ, Bill Clinton, Thống đốc bang Arkansas đã đánh bại nhiều ứng cử viên để giành được sự đề cử ra tranh chức tổng thống của Đảng này. Ông đã chọn Thượng nghị sỹ Al Gore, Thống đốc bang Tennessee làm ứng cử viên Phó Tổng thống của mình. Al Gore nổi tiếng là một nghị sỹ có chủ trương bảo vệ môi trường mạnh mẽ nhất trong Quốc hội.
Nhưng tình trạng bất ổn sâu sắc của đất nước về phương diện kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ứng cử của một ứng cử viên độc lập xuất sắc - nhà tư bản giàu có bang Texas, H.Ross Perot. Perot đã đề cập đến các lý do khiến Washington thất bại trong việc giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế, chủ yếu là vấn đề thâm hụt ngân sách liên bang. Ông có một tính cách sinh động và có năng khiếu đối thoại chính trị trực tuyến. Ông được coi là ứng cử viên của đảng thứ ba thành công nhất kể từ thành công trước đó của Theodore Roosevelt năm 1992.
Nỗ lực tái đắc cử của Bush được xây dựng xoay quanh các ý tưởng truyền thống từng được các bậc tiền nhiệm sử dụng: kinh nghiệm và lòng tin. George Bush, 68 tuổi, là vị Tổng thống cuối cùng từng tòng quân trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, đang phải đương đầu với một đối thủ trẻ tuổi - Bill Clinton - 46 tuổi, chưa từng tham gia quân đội và đã từng tham gia vào các cuộc biểu tình phản đối Chiến tranh Việt Nam. Khi đề cao kinh nghiệm với tư cách là Tổng thống và Tổng Tư lệnh quân đội của mình, Bush cũng hướng sự chú ý của dân chúng tới sự thiếu kinh nghiệm ở tầm quốc gia của Clinton.
Về phần mình, Bill Clinton đã triển khai cuộc vận động của ông xung quanh một chủ đề khác hẳn với những khẩu hiệu cũ: sự đổi thay và tuổi trẻ. Khi còn là học sinh trung học, Clinton đã một lần gặp gỡ Tổng thống Kennedy; 30 năm sau, nhiều câu ông nói đã lặp lại một cách có ý thức những ý tưởng của Kennedy trong chiến dịch vận động tranh cử của vị cố Tổng tống này từ năm 1960.
Do đã từng làm Thống đốc bang Arkansas suốt 12 năm, Clinton đã có thể chỉ ra những kinh nghiệm của mình trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế, giáo dục và chăm sóc y tế - những vấn đề mà theo các kết quả thăm dò dư luận là những điểm yếu trong chính sách của Bush. Khi Bush đề nghị một chương trình kinh tế với các khoản thuế thấp và cắt giảm chi tiêu chính phủ thì Clinton lại đề xuất các khoản thuế cao hơn đối với người giàu, tăng chi phí cho đầu tư vào giáo dục, giao thông và thông tin liên lạc - là những khu vực mà ông tin rằng sẽ làm tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế, từ đó sẽ làm giảm thâm hụt ngân sách. Tương tự, các đề xuất về chăm sóc y tế mà Clinton đưa ra đỏi hỏi Chính phủ Liên bang phải can thiệp nhiều hơn so với các đề xuất của Bush.
Clinton đã chứng tỏ mình là một nhân vật có tài hùng biện xuất chúng không chỉ trên truyền hình - phương tiện mà ông đã dùng để quảng bá cho sự lịch thiệp và trí thông minh của mình. Những thành công to lớn của người tiền nhiệm Bush trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh và buộc Irắc rút quân khỏi Cô-oét đã càng làm tăng thêm sức mạnh cho luận điểm ngầm của Clinton rằng các hoạt động đối ngoại đã trở nên ít quan trọng hơn, khi đất nước đang phải đối mặt với những yêu cầu cấp bách về kinh tế xã hội đang tồn tại ngay trong lòng nước Mỹ.
Vào ngày 3/11, Bill Clinton đã đắc cử và trở thành vị Tổng thống thứ bốn hai của Hoa Kỳ, với 43% tổng số phiếu bầu phổ thông, trong khi đó, Bush giành được 37% và Perot được 19% số phiếu bầu.
NHIỆM KỲ TỔNG THỐNG MỚI
Trên nhiều mặt, Clinton là một nhà lãnh đạo toàn tài trong một Đảng đang bị chia rẽ thành hai phe - tự do và ôn hòa. Ông phải tập hợp những quan điểm khác biệt này lại với nhau và dung hòa nhu cầu và lợi ích của các nhóm trong Đảng Dân chủ mà không chia rẽ họ.
Tránh dùng những lời lẽ lý tưởng hóa tuyên bố rằng chính phủ lớn là một điều tích cực, ông đã đề xuất nhiều chương trình khiến ông được mệnh danh là một nhà Dân chủ kiểu mới. Kiểm soát nạn quan liêu và việc bổ nhiệm những vị trí trong ngành tư pháp trên toàn liên bang là một biện pháp làm hài lòng các tổ chức lao động và các nhóm dân sự. Đối với vấn đề gây tranh cãi về quyền phá thai của phụ nữ, Clinton ủng hộ quyết định của tòa án trong vụ Roe kiện Wade, nhưng ông cũng tuyên bố rằng việc phá thai cần phải được thực hiện an toàn, hợp pháp, và không được diễn ra thường xuyên.
Người trợ lý gần gũi nhất của Clinton là vợ của ông, Hillary Rodham Clinton. Trong chiến dịch tranh cử, ông đã tuyên bố rằng những ai bỏ phiếu cho ông sẽ được mua một tặng một. Bà Hillary đã ở bên cạnh chồng mình để giúp ông đương đầu với những lời buộc tội về đời sống riêng tư của Tổng thống.
Cũng là một nhà hoạt động chính trị năng nổ đầy nhiệt huyết như chồng, bà Clinton đã đảm đương vai trò tiên phong hơn bất kỳ đệ nhất phu nhân nào trước đó, kể cả Eleanor Roosevelt. Đóng góp quan trọng đầu tiên của bà có lẽ là việc xây dựng chương trình y tế quốc gia. Năm 2000, khi nhiệm kỳ tổng thống của chồng sắp kết thúc, bà đã được bầu làm Thượng nghị sỹ của bang New York.
TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI MỚI
Trên thực tế, chủ trương ôn hòa của Clinton yêu cầu phải có các lựa chọn đôi khi gây ra những tình cảm mạnh mẽ trong dân chúng. Sáng kiến chính sách đầu tiên của Tổng thống là thỏa mãn các nhu cầu của người đồng tính, vốn là những nạn nhân của nạn kỳ thị. Sáng kiến này khiến giới đồng tính trở thành một khu vực cử tri quan trọng ủng hộ Đảng Dân chủ.
Ngay sau diễn văn nhậm chức, Tổng thống Clinton đã xóa bỏ quy định có từ lâu nay về việc sa thải những quân nhân bị phát hiện là đồng tính ra khỏi quân đội. Quyết định này lập tức nhận được nhiều lời chỉ trích từ phía quân đội, đặc biệt từ phía những đảng viên Cộng hòa và từ nhiều tầng lớp trong xã hội Mỹ. Clinton đã nhanh chóng điều chỉnh sắc lệnh này bằng một sắc lệnh không hỏi, không nói, thực tế là phục hồi lại chính sách cũ nhưng không khuyến khích chủ động điều tra về đời sống tình dục của các cá nhân.
Nỗ lực hoàn thành chương trình y tế quốc gia tỏ ra là một bước thụt lùi lớn. Chính phủ đã cho phép thành lập một nhóm chuyên trách lớn do Hillary Clinton đứng đầu, bao gồm các nhà hoạt động chính trị và các nhà trí thức chính sách nổi tiếng làm việc liên tục trong nhiều tháng để xây dựng một chương trình y tế nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho mọi người dân Mỹ.
Giả định của kế hoạch này là một kế hoạch người được trả tiền duy nhất do chính phủ quản lý có thể cung cấp dịch vụ y tế trên toàn lãnh thổ một cách hiệu quả hơn so với hệ thống phi tập trung hiện hành - một hệ thống với hàng nghìn công ty bảo hiểm và hàng nghìn nhà cung cấp dịch vụ gián tiếp. Tuy nhiên, vào tháng 9/1993, khi được đưa ra Quốc hội, kế hoạch này đã phản ánh sự phức tạp vốn là bản chất của chăm sóc y tế. Phần lớn các đảng viên Cộng hòa và một vài người thuộc Đảng Dân chủ đã chỉ trích kế hoạch này là một sự tiếp quản vô vọng của nhà nước đối với nền y học Mỹ. Sau một năm tranh cãi, kế hoạch này đã thất bại vì không được một ai trong Quốc hội bỏ phiếu thông qua.
Clinton đã thành công hơn ở lĩnh vực khác khi ông khôi phục sự thịnh vượng của nền kinh tế Mỹ. Vị Tổng thống tiền nhiệm, George Bush, đã đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) nhằm xây dựng một khu vực thương mại hoàn toàn tự do giữa Mỹ, Canađa và Mexico. Các khu vực cử tri quan trọng của Đảng Dân chủ tỏ ý phản đối Hiệp định này. Các công đoàn tin rằng Hiệp định này có thể khuyến khích xuất khẩu việc làm và làm xói mòn các tiêu chuẩn lao động của Mỹ. Những nhà môi trường thì lo ngại rằng Hiệp định này sẽ khiến các ngành công nghiệp của Mỹ chuyển dịch đến những quốc gia yếu kém hơn trong kiểm soát ô nhiễm. Đây là những biểu hiện đầu tiên của một làn sóng ngày càng dâng cao của cánh hữu trong đời sống chính trị Mỹ nhằm chống lại viễn cảnh về một hệ thống kinh tế thế giới hội nhập.
Tuy nhiên, Tổng thống Clinton lại đồng ý với luận điểm cho rằng thương mại tự do sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng chảy lớn hơn và hiệu quả hơn về hàng hóa và dịch vụ. Chính quyền của ông không chỉ đệ trình NAFTA trước Nghị viện, mà còn ủng hộ việc xây dựng một hệ thống thương mại quốc tế tự do hơn và được quản lý bởi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sau một cuộc tranh luận nảy lửa, Quốc hội đã thông qua NAFTA năm 1993 và thông qua việc Mỹ trở thành thành viên của WTO một năm sau đó.
Mặc dù trong cuộc vận động tranh cử của mình, Clinton đã nói về một chương trình cắt giảm thuế cho tầng lớp trung lưu nhưng ông vẫn đề xuất trước Quốc hội một ngân sách đòi hỏi phải tăng thuế rộng rãi. Ban đầu, chương trình này bao gồm việc tăng thuế rộng rãi đối với tiêu thụ năng lượng nhằm mục đích bảo vệ môi sinh, nhưng sau đó đã nhanh chóng được thay thế bởi việc tăng thuế danh nghĩa trong tiêu thụ khí đốt trên toàn quốc. Chương trình này cũng đánh thuế lên lợi tức bảo hiểm xã hội đối với người thụ hưởng có thu nhập cao và trung bình. Tuy nhiên, quan trọng nhất là việc tăng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Một cuộc tranh cãi sôi nổi lại diễn ra giữa những người ủng hộ giảm thuế và những người ủng hộ trách nhiệm thuế khóa vốn rất điển hình trong nhiệm kỳ tổng thống của Ronald Reagan. Cuối cùng, Clinton cũng đã đạt được mong muốn của mình, nhưng chỉ với một chiến thắng sát sao. Chương trình thuế khóa của ông đã được Hạ viện thông qua với chỉ một phiếu thừa.
Đúng lúc đó, các chiến dịch bầu cử Quốc hội năm 1994 bắt đầu khởi động. Mặc dù Chính quyền Clinton đã đưa ra rất nhiều quyết định về chính sách đối ngoại, nhưng những vấn đề đối nội rõ ràng là quan trọng nhất đối với các cử tri. Các đảng viên Cộng hòa chỉ trích Clinton và các đảng viên Dân chủ là đã không cải cách thuế khóa và chi tiêu chính phủ. Chính bản thân Clinton cũng đang bị mắc kẹt do bị buộc tội về một dự án bất động sản ở Arkansas trước kia đang bị kết luận là có vấn đề về tài chính; đồng thời, phải đương đầu với những lời buộc tội mới về quan hệ tình dục không lành mạnh. Vào tháng 11, lần đầu tiên kể từ cuộc bầu cử năm 1952, các cử tri đã trao cho Đảng Cộng hòa quyền kiểm soát ở cả hai Viện trong Quốc hội. Nhiều nhà quan sát đã tin rằng Bill Clinton sẽ chỉ giữ chức tổng thống trong một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, bằng việc đưa ra một quyết định phù hợp với thực tế chính trị mới, Clinton đã dung hòa cuộc chạy đua chính trị của mình. Ông chỉ đưa ra rất ít sáng kiến chính sách trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ tổng thống. Trái với dự báo của Đảng Cộng hòa về việc kinh tế Mỹ sẽ ảm đạm, chính sách tăng thuế năm 1993 đã không cản được sự tăng trưởng vững chãi của nền kinh tế Mỹ.
Ngược lại, những người lãnh đạo mới của Đảng Cộng hòa trong cả hai Viện lại gây sức ép lớn trong việc hoàn tất những mục tiêu chính sách của họ, ngược hẳn lại với chủ trương ôn hòa mới của chính quyền. Khi các phần tử cực đoan cánh tả cho nổ bom một tòa nhà Liên bang tại thành phố Oklahoma vào tháng 4/1995, Clinton đã trả lời với một giọng ôn hòa, nhấn mạnh quan điểm của ông và làm dịu những kẻ bảo thủ mang tư tưởng chống đối. Vào cuối năm đó, ông đã bỏ phiếu phủ quyết chương trình ngân sách do Đảng Cộng hòa đưa ra khiến chính phủ bị đóng băng trong nhiều tuần. Đa số dân chúng đều bày tỏ thái độ lên án Đảng Cộng hòa.
Tuy nhiên, Tổng thống cũng vẫn tham gia vào các chương trình của Đảng Cộng hòa. Trong thông điệp liên bang tháng 1/1996, ông đã tuyên bố hùng hồn rằng "Thời đại của một chính phủ lớn đã qua rồi". Mùa hè năm đó, trong cuộc vận động tái tranh cử của mình, ông đã ký duyệt một chương trình cải cách quan trọng - vốn là sáng kiến do Đảng Cộng hòa đưa ra. Vốn có mục tiêu chấm dứt việc trợ cấp vĩnh viễn cho những người nhận trợ cấp nhằm buộc họ phải tìm kiếm việc làm, sáng kiến này bị nhiều đảng viên trong chính Đảng Dân chủ của ông phản đối. Nhìn chung, chương trình này cũng đã thu được những thành công nhất định trong thập niên sau đó.
NỀN KINH TẾ MỸ TRONG THẬP KỶ 90
Giữa những năm 1990, nước Mỹ đã bắt đầu hồi phục sau một cuộc suy thoái kinh tế ngắn ngủi nhưng trầm trọng đã xảy ra trong nhiệm kỳ tổng thống của Bush. Nước Mỹ đang bước vào một kỷ nguyên tăng trưởng thịnh vượng và bền vững, bất chấp sự suy giảm của các ngành công nghiệp truyền thống. Có thể động lực chủ yếu của sự tăng trưởng mới này là việc bùng nổ của máy tính cá nhân.
Gần 20 năm sau khi ra đời, máy tính cá nhân đã trở thành một vật dụng quen thuộc, không chỉ trong tất cả các văn phòng của mọi loại hình doanh nghiệp mà còn ở tất cả các gia đình Mỹ. Mạnh hơn là người ta có thể tưởng tượng ra vào hai thập niên trước đây, có khả năng lưu trữ một số lượng khổng lồ các loại dữ liệu và chỉ có giá thành ngang với một chiếc tủ lạnh tốt, máy tính cá nhân đã trở thành một thiết bị phổ biến tại tất cả các gia đình Mỹ.
Nhờ sử dụng các phần mềm được cài đặt sẵn, người ta có thể sử dụng máy tính cá nhân để ghi chép sổ sách kế toán, soạn thảo văn bản, hay dùng nó như một nơi lưu trữ các bản nhạc, các bức ảnh và đoạn video. Sự xuất hiện của Internet phát triển từ một mạng lưới dữ liệu quốc phòng trước đó bị đóng kín đã đem lại khả năng tiếp cận tất cả các loại thông tin, tạo ra các cơ hội mua sắm mới, và biến thư điện tử thành một phương thức giao tiếp phổ thông. Điện thoại di động được sử dụng rộng rãi cũng tạo ra một ngành công nghiệp mới khổng lồ phát triển cùng với máy tính cá nhân.
Giao tiếp ngay lập tức và khả năng xử lý dữ liệu trong chớp mắt đã giúp cho nhịp độ của nhiều lĩnh vực kinh doanh trở nên chóng vánh hơn, làm tăng năng suất và mở ra các cơ hội lợi nhuận mới. Các ngành công nghiệp non trẻ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết bị mới này bỗng chốc đã trở thành những công ty có tài sản nhiều tỷ đô la, làm sản sinh ra một tầng lớp trung lưu mới đông đảo bao gồm các kỹ thuật viên phần mềm, các nhà quản lý và các nhà quảng cáo.
Động lực cuối cùng của tăng trưởng kinh tế là thời điểm một thiên niên kỷ mới đang đến. Yêu cầu phải cập nhật và nâng cấp các máy tính đã cũ, những thiết bị có thể sẽ không nhận dạng được năm 2000 do sự cố Y2K, đã khiến các khoản chi cho công nghệ dữ liệu lên đến mức kỷ lục.
Những xu thế phát triển này xảy ra trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Clinton. Vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của ông, chúng trở thành một nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi ông mới được bầu làm tổng thống, tỷ lệ thất nghiệp là 7,4%. Khi ông bắt đầu tái tranh cử vào năm 1996, tỷ lệ thất nghiệp là 5,4%. Và khi các cử tri đi bỏ phiếu để chọn người kế nhiệm ông vào năm 2000 thì tỷ lệ thất nghiệp chỉ còn 3,9%. Tại nhiều nơi, vấn đề không nằm ở chỗ phải chăm sóc cho những người thất nghiệp, mà ở chỗ làm sao tuyển dụng được lao động.
Không chỉ Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, quan sát thấy sự leo thang chóng mặt của thị trường chứng khoán với mối lo ngại và lời cảnh báo rằng thị trường này đang tăng trưởng một cách phi lý. Sự lạc quan của các nhà đầu tư, ở mức cao nhất kể từ những năm 1920, vẫn tiếp tục tăng lên vì họ tin rằng những chuẩn mực về xác định giá trị chứng khoán đang trở nên lỗi thời bởi một nền kinh tế mới với tiềm năng không giới hạn. Giai đoạn tốt đẹp này đang diễn biến nhanh chóng đến mức nguy hiểm, nhưng phần lớn người Mỹ vẫn thích hưởng thụ đà tăng trưởng kinh tế khi vẫn còn tăng trưởng hơn là chuẩn bị cho những rắc rối có thể xảy ra trong tương lai.
CUỘC BẦU CỬ NĂM 1996 VÀ HẬU QUẢ CHÍNH TRỊ CỦA NÓ
Tổng thống Clinton tiến hành cuộc vận động tái tranh cử năm 1996 của mình trong một bối cảnh vô cùng thuận lợi. Nếu không phải là một người có tính cách gây được ảnh hưởng đến người khác theo phong cách của Roosevelt, thì Clinton cũng có năng khiếu bẩm sinh trong các cuộc vận động, với sự duyên dáng đầy cuốn hút. Ông đã làm tổng thống trong một giai đoạn mà nước Mỹ phục hồi ngày càng mạnh mẽ. Ông đã lựa chọn lập trường chính trị trung lập nghiêng về cánh hữu. Đối thủ Đảng Cộng hòa của ông, Thượng nghị sỹ Robert Dole bang Kansas, lãnh đạo Đảng Cộng hòa tại Thượng viện, cũng là một nhà lập pháp tài ba nhưng lại ít thành công hơn khi ở cương vị ứng cử viên cho chiếc ghế tổng thống.
Hứa hẹn rằng sẽ xây "một cây cầu tiến vào thế kỷ XXI cho nước Mỹ”, Clinton đã dễ dàng đánh bại Dole trong cuộc đua tranh giữa ba đảng phái, đạt 49,2% so với 40,7% số phiếu bầu cho Dole và 8,4% phiếu bầu cho Ross Perot. Ông đã trở thành vị Tổng thống Mỹ thứ hai thắng cử hai nhiệm kỳ liên tiếp với số phiếu ít hơn quy định đa số trong tổng số phiếu bầu (Vị Tổng thống trước kia đã thắng cử hai nhiệm kỳ liên tiếp là Woodrow Wilson năm 1912 và 1916). Tuy nhiên, các đảng viên Cộng hòa vẫn giữ quyền kiểm soát cả hai Viện trong Quốc hội.
Clinton không nói nhiều về các chương trình quốc nội trong nhiệm kỳ thứ hai của mình. Vấn đề trọng tâm trong năm đầu tiên là một thỏa thuận với Quốc hội nhằm thiết lập cân bằng ngân sách. Chương trình này càng khẳng định mạnh mẽ hơn quan điểm của ông với tư cách là một người tự do ôn hòa có trách nhiệm về tài khóa.
Năm 1998, đời sống chính trị Mỹ bước vào giai đoạn rối loạn khi Clinton bị phát hiện là có dính líu với một nữ thực tập sinh trẻ trong Nhà Trắng. Đầu tiên, Tổng thống phủ nhận điều này và tuyên bố với công chúng Mỹ rằng "Tôi không có quan hệ tình dục với người phụ nữ này". Trước đây, Tổng thống đã từng phải đối mặt với những lời cáo buộc tương tự. Trong vụ kiện vì tội quấy rối tình dục một phụ nữ ở Arkansas, Clinton đã phủ nhận điều này bằng một lời tuyên thệ trước Nhà Trắng. Hành động này được nhiều người dân Mỹ coi là sự phản bội lời thề. Tháng 10/1998, Hạ viện bắt đầu các phiên điều trần về lời buộc tội, tập trung vào những lời buộc tội phản bội lời thề và cản trở công lý.
Dù phương pháp tiếp cận đó có những ưu điểm gì, song đa số người Mỹ vẫn nhìn nhận sự việc này là chuyện riêng của cá nhân, nên để cho gia đình giải quyết. Đây quả là một sự thay đổi lớn lao trong thái độ của dân chúng Mỹ. Điều cũng đáng nói nữa là Hillary Clinton vẫn tiếp tục ủng hộ chồng mình. Một thuận lợi nữa là tình hình kinh tế thời điểm đó cũng rất sáng sủa. Trong khi các cuộc tranh luận về lời buộc tội tại Hạ viện đang diễn ra, Tổng thống đã tuyên bố khoản thặng dư ngân sách lớn nhất trong vòng 30 năm qua. Các cuộc trưng cầu dân ý thì chỉ ra rằng chỉ số tín nhiệm Clinton đang cao nhất kể trong suốt sáu năm ông làm tổng thống.
Trong tháng 11 năm đó, những người Cộng hòa tiếp tục mất nhiều ghế trong cuộc bầu cử Quốc hội giữa nhiệm kỳ, khiến thế đa số của họ giờ chỉ còn hơn kém rất sít sao so với phe Dân chủ. Chủ tịch Hạ viện, Newt Gingrich, đã từ chức, và Đảng Cộng hòa cũng cố gắng tạo dựng một hình ảnh ít nổi bật hơn. Tuy nhiên, vào tháng 12, Hạ viện đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết buộc tội đầu tiên kể từ thời Andrew Johnson (1868) đối với tổng thống đương nhiệm và đưa vụ việc ra xét xử trước Thượng viện.
Phiên tòa xử Clinton do Chánh án Tòa án Tối cao Mỹ làm chủ tọa không khiến người ta hồi hộp nhiều. Trong quá trình diễn ra phiên tòa, Tổng thống đã đọc bản Thông điệp Liên bang thường niên của mình trước Quốc hội. Ông không khai nhận trước tòa, và không nhà quan sát nghiêm túc nào cho rằng bất kỳ lời buộc tội nào trong số những lời buộc tội chống lại Tổng thống lại có thể tạo ra số phiếu chiếm được 2/3 số phiếu cần thiết để miễn nhiệm ông. Cuối cùng, không lời buộc tội nào đạt đa số phiếu cả. Vào ngày 12/2/1999, Clinton được tuyên bố trắng án.
QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA MỸ TRONG HAI NHIỆM KỲ TỔNG THỐNG CỦA BILL CLINTON
Bill Clinton không dự định trở thành một vị Tổng thống chú trọng nhiều đến chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, giống như người tiền nhiệm Bush, ông đã nhanh chóng nhận ra rằng mọi khủng hoảng quốc tế dường như đều xuất phát từ Washington.
Ông đã phải giải quyết những hậu quả rắc rối do Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 để lại. Thất bại trong việc lật đổ Saddam Hussein, Mỹ với sự hậu thuẫn của Anh, đã cố gắng kiềm chế ông. Chế độ trừng phạt kinh tế do Liên Hợp Quốc quản lý nhằm cho phép Irắc bán dầu mỏ đủ để chi cho các nhu cầu nhân đạo đã tỏ ra không mấy hiệu quả. Saddam đã chiếm dụng phần lớn tiền bán dầu mỏ cho lợi ích riêng của mình khiến nhiều người dân Irắc lâm vào cảnh bần cùng. Các vùng cấm bay quân sự, được thiết lập để ngăn không cho chính phủ Irắc triển khai lực lượng không quân chống lại quân nổi dậy Kurds ở phía Bắc và người Shiites ở phía Nam, đòi hỏi không quân của Anh-Mỹ phải tuần tiễu trên không, và những đợt tuần tiễu này thường phải ngăn cản các tên lửa tấn công máy bay.
Hoa Kỳ cũng cung cấp những phương tiện chủ yếu cho các đội thanh tra của Liên Hợp Quốc đến Irắc tìm hiểu về các kho vũ khí hạt nhân. Nhiệm vụ của các thanh tra này là phát hiện các chương trình nguyên tử, hóa học và sinh học của Irắc, xác minh sức tàn phá của các đầu đạn tên lửa hủy diệt hàng loạt và chấm dứt các kế hoạch sản xuất những vũ khí này. Càng ngày càng bị phía Irắc cản trở, cuối cùng, các thanh tra của Liên Hợp Quốc đã bị Irắc trục xuất năm 1998. Để trả đũa cho việc này và những lần khiêu khích trước đó, Mỹ đã sử dụng tên lửa hạn chế. Ngoại trưởng Mỹ Madeline Albright đã tuyên bố "Saddam vẫn còn đang trốn trong cái hộp của ông ta".
Cuộc tranh cãi dường như bất tận giữa Israel và Palestin cũng đã là một nguyên cớ khiến Chính phủ Mỹ can thiệp, cho dù cả Tổng thống Clinton lẫn cựu Tổng thống Bush đã có nhiều việc với Hiệp định Oslo năm 1993 cho phép Palestin có quyền cai quản những người Palestine trong phạm vi Bờ Tây và dải Gaza đồng thời buộc Palestin công nhận quyền tồn tại của Israel.
Tuy nhiên, giống như với nhiều thỏa thuận trên nguyên tắc trước đây về Trung Đông, Hiệp định Oslo cuối cùng đã thất bại khi các bên bắt đầu đi vào đàm phán những nội dung chi tiết. Vị lãnh tụ Palestin Yasser Arafat đã bác bỏ các đề nghị cuối cùng do nhà lãnh đạo Israel, Ehud Barak, đưa ra vào năm 2000 và tháng 1/2001. Hàng loạt các cuộc nổi loạn của người Palestin, chủ yếu là các cuộc nổ bom liều chết, đã nổ ra. Barak mất chức và được thay thế bởi một nhân vật có lập trường cứng rắn hơn nhiều, Ariel Sharon. Sự gắn bó chặt chẽ của Mỹ đối với Israel được coi là một vấn đề lớn cần giải quyết cùng với các vấn đề khác trong khu vực. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao Mỹ đã có thể làm được nhiều hơn là ngồi hy vọng hạn chế bạo lực. Sau khi Arafat qua đời vào cuối năm 2004, nhà lãnh đạo mới của Palestin tỏ ra sẵn sàng chấp nhận đàm phán hòa bình hơn, và các nhà hoạch định chính sách của Mỹ lại tăng cường nỗ lực để đẩy nhanh tiến trình hòa bình ở Trung Đông.
Tổng thống Clinton cũng trở nên đặc biệt quan tâm đến các rắc rối ở Bắc Ai-len. Một bên là Quân đội Cộng hòa Ai-len hiếu chiến, được các tổ chức Công giáo Ai-len hậu thuẫn, những người mong muốn sáp nhập các vùng đất thuộc Anh này vào Cộng hòa Ai-len. Bên kia là phái Liên minh, với sức mạnh quân sự và tính hiếu chiến tương đương, được hậu thuẫn bởi phần lớn dân cư gốc Ai-len-Scốt theo đạo Tin Lành, những người mong muốn đất nước của họ tiếp tục thuộc Vương quốc Anh.
Clinton đã dành cho những kẻ ly khai một sự công nhận nhiều hơn so với bất kỳ sự công nhận nào mà họ đã từng nhận được từ nước Mỹ. Nhưng đồng thời, ông cũng hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Anh của Thủ tướng John Major và Thủ tướng Tonny Blair. Kết quả cuối cùng là Hiệp ước hòa bình Ngày Thứ sáu tươi đẹp đã được ký kết năm 1998, bước đầu xây dựng nên tiến trình chính trị nhưng cũng để lại nhiều vấn đề chi tiết cần phải tiếp tục giải quyết. Trong vài năm tiếp theo, trật tự mà Mỹ mong muốn đã được duy trì tốt hơn ở Bắc Ai-len so với ở Trung Đông, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đổ vỡ. Các nhà đàm phán vẫn chưa đạt được hiệp định cuối cùng.
Sự tan rã sau Chiến tranh Lạnh của Nam Tư (Yugoslavia) - một đất nước bị phân chia về tôn giáo và sắc tộc thành các quốc gia của người Serbia, người Sloven, người Croat, người Bosnia Hồi giáo và người Kosovo gốc Anbani - cũng tạo sự tham gia của Hoa Kỳ sau khi các chính phủ ở châu Âu thất bại trong việc tham gia thiết lập trật tự ở đây. Chính quyền Bush đã từ chối không can thiệp vào các vụ bạo lực ban đầu; nhưng cuối cùng, Chính quyền Clinton đã tham gia giải quyết xung đột. Năm 1995, nước Mỹ đã đàm phán xong Hiệp định ở Dayton, bang Ohio, nhằm thiết lập một bầu không khí mới ở Bosnia. Năm 1999, đứng trước các cuộc thảm sát của Serbia ở Kosovo, nước Mỹ đã dẫn đầu chiến dịch không kích ném bom của NATO kéo dài ba tháng chống lại Serbia. Cuộc không kích này cuối cùng cũng đã buộc Serbia ngồi vào bàn đàm phán.
Năm 1994, chính quyền Mỹ đã khôi phục lại chức vụ cho Tổng thống Haiti Jean-Bertrand Aristide đang bị trục xuất. Ông đã yên vị trên chiếc ghế tổng thống trong vòng chín năm trước khi lại bị trục xuất một lần nữa. Sự can thiệp này là kết quả của việc Aristide có được sự hậu thuẫn của Mỹ và cũng là vì người Mỹ rất lo ngại về làn sóng người nhập cư bất hợp pháp từ Haiti.
Nói tóm lại, Chính quyền Clinton đã luôn tìm kiếm các giải pháp mạnh để can thiệp vào các vấn đề quốc tế.
NHỮNG ĐE DỌA CỦA CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ
Khi sắp hết nhiệm kỳ của mình, George H. W. Bush đã đưa quân Mỹ đến Somalia, một đất nước đang trong tình trạng hỗn loạn ở Đông Phi. Nhiệm vụ của các toán quân này là dẫn đầu một lực lượng Liên Hợp Quốc để triển khai thường xuyên các đợt viện trợ lương thực cho những người dân đang chết đói.
Somalia lại trở thành một vấn đề nữa mà Chính quyền Clinton cần giải quyết. Các nỗ lực nhằm xây dựng một chính phủ đại diện ở quốc gia này đã trở thành cả một dự án lớn để xây dựng nên một quốc gia. Tháng 10/1993, các toán quân Mỹ được gửi tới để truy bắt tên tư lệnh cầm đầu đã vấp phải sự chống cự mạnh mẽ bất ngờ, với tổn thất là mất một trực thăng tấn công và 18 binh sỹ Mỹ bị chết. Kẻ cầm đầu đã không bị bắt giữ và vài tháng sau đó, tất cả các đơn vị chiến đấu của Mỹ đã rút khỏi đây.
Theo quan điểm của chính quyền, việc chỉ đạt một cam kết lỏng lẻo, thiếu cơ sở rồi tập trung vào các ưu tiên khác là một hành động có thể coi là cẩn trọng. Mãi sau này, người ta mới phát hiện ra rằng tên tư lệnh cầm đầu ở Somalia đã được hậu thuẫn bởi một tổ chức đen tối mới xuất hiện mà sau này được biết đến dưới cái tên tổ chức al -Qaida do một kẻ theo Trào lưu Hồi giáo chính thống là Osama bin Laden cầm đầu. Là một kẻ chống đối dữ dội nền văn minh phương Tây, bin Laden luôn tin tưởng rằng người Mỹ sẽ không dám đánh lại khi bị tấn công.
Tại thời điểm đó, nước Mỹ đã có kinh nghiệm về các cuộc tấn công do các phần tử Hồi giáo cực đoan thực hiện. Tháng 2/1993, một chiếc xe ôtô chở bom đã nổ trong một bãi đỗ xe dưới tầng hầm của một trong hai tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới ở Mahattan. Vụ nổ bom này đã giết chết bảy người và khiến gần 1000 người bị thương, nhưng nó đã không làm tòa nhà sụp đổ với hàng nghìn người đang làm việc trong đó. New York và Chính quyền Liên bang coi đây là một tội ác hình sự. Bốn kẻ khủng bố đã bị bắt giữ và kết án chung thân. Sau đó, nhiều âm mưu khủng bố cho nổ các đường hầm giao thông, các tòa nhà công cộng và thậm chí Liên Hợp Quốc cũng đều bị phát hiện và giải quyết theo cách thức tương tự.
Tuy nhiên, chủ nghĩa khủng bố nước ngoài đã bị chính các hoạt động khủng bố trong nước làm lu mờ. Đầu tiên là vụ nổ bom tại thành phố Oklahoma. Vụ việc này do những kẻ cực đoan cánh tả Timothy McVeigh và Terry Nichols thực hiện, khiến 166 người chết và hàng trăm người khác bị thương, có hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều so với vụ tấn công Trung tâm Thương mại năm 1993. Nhưng ngày 25/6/1996, một vụ nổ bom khác đã xảy ra tại tòa nhà quân sự Mỹ ở tháp Khobar, ảrập Xêút, khiến 19 người chết và 515 người bị thương. Một bồi thẩm đoàn Liên bang đã tuyên án 13 tên khủng bố ảrập Xêút và một tên người Li-băng vì tội gây ra vụ tấn công này, nhưng ảrập Xêút đã bác bỏ vụ việc này.
Hai năm sau, ngày 7/8/1998, hai vụ nổ bom đã đồng loạt xảy ra và phá hủy các đại sứ quán của Mỹ tại Kenya và Tanzania, giết chết 301 người và làm bị thương hơn 5000 người. Để trả đũa, Clinton đã ra lệnh thực hiện các cuộc tấn công bằng tên lửa vào các trại huấn luyện của trùm khủng bố bin Laden ở Afghanistan, nhưng những trại huấn luyện này đều có vẻ là đã được sơ tán. Tổng thống cũng đã ra lệnh tấn công bằng tên lửa để phá hủy nhà máy hóa chất ở Sudan - đất nước trước kia đã cho bin Laden ẩn náu.
Vào ngày 12/10/2000, những tên ném bom cảm tử đã đâm thủng tàu cao tốc Cole của Hải quân Mỹ trong chuyến viếng thăm của chiến thuyền này tại Yemen. Một loạt các biện pháp tích cực đã được triển khai sau đó để giữ cho chiến thuyền không bị chìm, nhưng 17 thủy thủ đã chết. Rõ ràng là Bin Laden đã đứng sau các cuộc tấn công ở ảrập Xêút, châu Phi và Yemen, nhưng Chính quyền Clinton vẫn không bắt giữ được hắn dù đã chuẩn bị tiến quân vào Afganistan để truy bắt tên trùm khủng bố này.
Chính quyền Clinton không bao giờ muốn thực hiện các bước đi này. Nhưng điều này cần phải được thực hiện để ngăn chặn các hành động tàn sát gây chết người hàng loạt có thể sẽ lại xảy ra trong tương lai. Các cuộc tấn công đã được triển khai rời rạc ở những vùng hẻo lánh của Afganistan. Nước Mỹ không cảm thấy vui khi thực hiện những cuộc tấn công này nhưng đây là điều nước Mỹ bắt buộc phải làm với tư cách là một cường quốc trên thế giới. Bin Laden vẫn là một bóng ma đe dọa, nhưng hắn không phải là mối quan tâm hàng đầu của một chính quyền đang sắp kết thúc nhiệm kỳ của mình.
CUỘC BẦU CỬ TỔNG THỐNG NĂM 2000 VÀ CUỘC CHIẾN CHỐNG KHỦNG BỐ
Đảng Dân chủ đã chỉ định Phó Tổng thống Al Gore làm ứng cử viên tranh cử chức tổng thống trong cuộc bầu cử năm 2001. Đối thủ của ông này là ứng cử viên Đảng Cộng hòa George W. Bush, Thống đốc bang Texas và là con trai của cựu Tổng thống George H. W. Bush.
Gore ra tranh cử với tư cách là một người theo trung thành với quan điểm tự do, tập trung chủ yếu vào bảo vệ môi trường và đem lại nhiều hỗ trợ hơn cho những tầng lớp dân chúng ít được ưu ái trong xã hội Mỹ. Có vẻ như ông chọn cho mình một lập trường chính trị nghiêng về cánh hữu hơn so với Clinton.
Bush thì lại chọn cho mình quan điểm chính trị gần với lập trường của Ronald Reagan hơn là với quan điểm của cha mình. Ông thể hiện mối quan tâm đặc biệt đến giáo dục và tự gọi mình là một người bảo thủ nhiệt thành. Đức tin của ông đối với đạo Thiên Chúa - mà ông đã tuyên bố rằng đức tin này đã làm thay đổi cuộc sống của ông sau một thời trai trẻ nhiều sai lầm - đã trở thành một ưu thế đặc biệt quan trọng. Đức tin này khiến ông ủng hộ các giá trị văn hóa truyền thống, trái ngược hẳn lại với quan điểm kỹ thương hiện đại của Gore. Ralph Nader, với tư tưởng nghiêng về cánh hữu hơn so với Gore, cũng tham gia tranh cử với tư cách là đại diện của Đảng Xanh. Còn Patrick Buchanan - một người thuộc phái Cộng hòa bảo thủ - cũng tham gia tranh cử với tư cách là ứng cử viên tự do.
Vòng bỏ phiếu cuối cùng gần như chỉ phụ thuộc vào các khu vực đại cử tri. Nòng cốt là bang Florida nơi mà các ứng cử viên chỉ chênh nhau rất ít phiếu bầu và hàng nghìn lá phiếu bị đặt vấn đề nghi vấn. Sau hàng loạt các cuộc kiểm tra của Tòa án bang và Tòa án Liên bang, cũng như sau khi xem xét các điều luật liên quan, Tòa án Tối cao đã ra quyết định rằng phần thắng thuộc về Bush. Đảng Cộng hòa nắm quyền kiểm soát ở cả hai Viện trong Quốc hội với số phiếu chênh lệch rất ít.
Tổng số phiếu cuối cùng đã phản ánh kết quả rất sít sao của cuộc bầu cử: Bush đã thắng cử với 271 phiếu bầu của đại cử tri, trong khi Gore đạt 266 phiếu. Nhưng Gore lại dẫn đầu trong tổng số phiếu bầu phổ thông với 48,4% trong khi Bush đạt 47,9%, Nader đạt 2,7% và Buchanan đạt 4%. Gore được các bang vùng Đông Bắc và bờ Tây ủng hộ - các vùng này được tô màu xanh trên các bản đồ truyền thông. Ông cũng được tín nhiệm ở các bang công nghiệp chủ chốt vùng Trung Tây. Bush chiếm ưu thế ở các bang miền Nam, các bang còn lại vùng Trung Tây và các bang miền núi - khu vực ủng hộ ông được tô màu đỏ. Các bình luận viên trên khắp nước Mỹ đều hồi hộp theo dõi sự cách biệt giữa vùng màu đỏ và màu xanh trên bản đồ nước Mỹ - một sự phân chia có nguồn gốc sâu xa từ sự khác biệt về văn hóa và xã hội hơn là về kinh tế, và do đó càng mang tính chất tình cảm. George Bush đã nhậm chức tổng thống trong một không khí bè phái cay đắng.
Ban đầu, Bush dự tính sẽ tập trung chủ yếu vào chính sách đối nội. Ông muốn cải cách giáo dục. Trong cuộc vận động tranh cử của mình, ông đã tuyên bố về việc cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội. Ông cũng muốn đi theo chương trình cắt giảm thuế của Reagan.
Tổng thống nhanh chóng nhận thấy rằng ông cần phải đối phó với một nền kinh tế đang bắt đầu đi xuống sau khi đã đạt mức tăng trưởng cao trong những năm cuối của thập niên 90. Điều này đã khiến chương trình cắt giảm thuế của ông được thông qua vào tháng 5/2001. Cuối năm đó, ông cũng đã được Quốc hội thông qua Luật Không có trẻ em nào bị tụt hậu, có nội dung yêu cầu các trường công lập phải tổ chức kiểm tra hàng năm khả năng cơ bản của học sinh về đọc và làm toán. Luật này cũng quy định các biện pháp phạt đối với những trường học không đạt tiêu chuẩn về giáo dục. Những khoản thâm hụt được dự đoán trong quỹ tín thác bảo hiểm xã hội vẫn chưa được giải quyết.
Nhiệm kỳ tổng thống của Bush đã có một sự xáo động lớn lao vào ngày 11/9/2001, khi nước Mỹ bàng hoàng trước một cuộc tấn công khốc liệt nhất từ bên ngoài vào lãnh thổ nước Mỹ. Buổi sáng hôm đó, những tên khủng bố Trung Đông đã đồng loạt bắt cóc bốn máy bay dân sự của Mỹ và sử dụng hai chiếc máy bay trong số đó làm phương tiện liều chết phá hủy tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới. Chiếc thứ ba đâm vào Lầu Năm góc - trụ sở của Bộ Quốc phòng Mỹ nằm ngay tại ngoại ô thủ đô Washington. Chiếc máy bay thứ tư, có thể là để đâm vào nhà Quốc hội Mỹ nhưng đã đâm xuống vùng ngoại ô Pennsylvania do các hành khách trên máy bay đã đánh trả lại bọn không tặc.
Đa số người thiệt mạng là các công dân đang làm việc tại Trung tâm Thương mại, ước tính khoảng gần 3.000 người, nhiều hơn số thương vong mà Nhật Bản đã gây ra cho nước Mỹ trong trận chiến Trân Châu Cảng năm 1941. Tổn thất về kinh tế cũng rất nặng nề. Trung tâm thương mại bị phá hủy kéo theo một vài tòa nhà bên cạnh cũng bị đổ sụp và các thị trường chứng khoán thì ngừng hoạt động trong nhiều ngày. Hậu quả là cuộc suy thoái kinh tế vốn đã xuất hiện nay lại bị kéo dài lâu hơn nữa.
Ngay sau khi nước Mỹ vừa bước ra khỏi tấn thảm kịch ngày 11/9, một người hoặc một nhóm người nặc danh đã gửi đi các bức thư chứa đầy vi khuẩn bệnh than. Một số bức thư được gửi đến các thành viên trong Quốc hội và các viên chức chính phủ, các bức thư khác thì được gửi đến dân thường. Không có quan chức nào bị nhiễm bệnh, nhưng đã có năm nạn nhân bị chết và một số người khác bị ốm nặng. Vụ gửi thư này đã gây ra một làn sóng hỗn loạn trên toàn nước Mỹ, sau đó, nó đột ngột ngừng lại như đã đột ngột xảy ra, và đến giờ vẫn là một điều bí hiểm.
Sự kiện này đã buộc Quốc hội phải thông qua Đạo luật Yêu nước ngày 26/10/2001. Đạo luật này được đưa ra nhằm chống lại nạn khủng bố nội địa và trao cho Chính quyền Liên bang quyền được truy bắt, bắt giữ và bỏ tù những tên khủng bố. Các nhân vật thuộc phái chống đối thì cho rằng đạo luật này đã vi phạm nghiêm trọng quyền con người theo Hiến pháp. Những người ủng hộ thì đáp lại rằng đất nước đang trong tình trạng chiến tranh và nó cần phải có các biện pháp để tự vệ.
Sau một thời gian do dự, Chính quyền Bush đã quyết định ủng hộ việc thành lập một Bộ An ninh Nội địa mới có quy mô khổng lồ. Được phép thành lập vào tháng 11/2002, có nhiệm vụ điều phối các hoạt động chống lại các cuộc tấn công khủng bố trên nước Mỹ, Bộ An ninh Nội địa mới này là tổ chức hợp nhất của 22 cơ quan Liên bang.
ở nước ngoài, chính quyền đã lập tức trả đũa lại thủ phạm gây ra các cuộc tấn công ngày 11/9. Cho rằng cuộc tấn công này là do tổ chức al -Qaida tiến hành, nước Mỹ đã mở một cuộc tấn công quân sự ồ ạt chống lại Osama bin Laden và chính phủ Hồi giáo ở Afganistan. Nước Mỹ đã hợp tác với Liên bang Nga, thiết lập quan hệ với các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ có chung biên giới với Afganistan, và trên hết, nối lại liên minh vốn bị sao lãng từ lâu với Pakistan, là quốc gia đã ủng hộ Mỹ về mặt chính trị và cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ không quân ở đây.
Nhờ sử dụng các lực lượng quân sự đặc biệt và các hoạt động bán quân sự của Cơ quan Tình báo Trung ương, chính quyền Mỹ đã liên kết với quân nổi dậy Afganistan vốn từ lâu không còn đóng vai trò quan trọng. Được hậu thuẫn hiệu quả bằng không quân, Liên quân đã lật đổ chính phủ Afganistan trong vòng hai tháng. Bin Laden, những kẻ cầm đầu quân Taliban và nhiều binh lính khác của chúng đã trốn thoát ra vùng ngoại ô - là khu vực bán tự trị nằm phía Đông Bắc Pakistan. Từ đây, chúng đã tập hợp lại với nhau và tìm cách tấn công Chính phủ Afganistan mới còn đang non yếu.
Trong thời gian đó, Chính quyền Bush đã xác minh được nguồn gốc những kẻ thù khủng bố khác. Trong bản Thông điệp Liên bang năm 2002, Tổng thống đã nêu ra một trục tam giác có khả năng ảnh hưởng tới an ninh quốc gia: đó là Irắc, Iran và Bắc Triều Tiên. Trong ba quốc gia này, theo nhận định của Tổng thống và của các cố vấn thì Irắc có vẻ như là mối đe dọa sát sườn nhất. Saddam Hussein đã thành công trong việc trục xuất các thanh tra vũ khí của Liên Hợp Quốc. Các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Irắc đã được gỡ bỏ và mặc dù chính quyền nước này có vẻ như không dính líu gì đến vụ tấn công ngày 11/9 nhưng Irắc hình như vẫn có các mối liên hệ với al Qaida - Hoa Kỳ tin rằng không chỉ trên đất Mỹ mà còn ở khắp nơi trên thế giới, Irắc vẫn đang tàng trữ những vũ khí hóa học và sinh học, đồng thời vẫn đang tiếp tục xây dựng kho vũ khí hạt nhân. Vậy tại sao lại không tiếp tục gửi đến đây các đoàn thanh tra và tiếp tục áp dụng các biện pháp trừng phạt?
Trong năm đó, Chính quyền Bush đã gây sức ép để Liên Hợp Quốc ra nghị quyết yêu cầu thanh tra vũ khí hàng loạt và các thanh tra viên được quyền ra vào tự do tất cả các địa điểm trên lãnh thổ Irắc. Tháng 10/2002, Bush đã được Quốc hội cho phép sử dụng quân đội - với số phiếu ủng hộ là 296/133 tại Hạ viện và 77/23 tại Thượng viện. Quân đội Mỹ bắt đầu gửi người và phương tiện đến Cô-oét.
Tháng 11/2002, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã đồng thuận thông qua Nghị quyết số 1441 yêu cầu Irắc cho phép vô điều kiện các thanh tra của Liên Hợp Quốc tìm kiếm vũ khí bị cấm tại bất kỳ địa điểm nào trên lãnh thổ Irắc. Năm ngày sau, Irắc tuyên bố đồng ý. Tuy nhiên, các thanh tra phàn nàn rằng chính quyền Irắc đã không giữ lời hứa. Tháng 1/2003, Trưởng đoàn thanh tra Hans Blix đã trình bày bản báo cáo trước Liên Hợp Quốc. Bản báo cáo tuyên bố rằng Irắc không tàng trữ vũ khí phá hủy hàng loạt, nhưng cũng khuyến cáo rằng nhóm thanh tra cần phải nỗ lực kiểm tra nhiều hơn nữa trước khi rút khỏi Irắc.
Bất chấp sự hợp tác không thỏa đáng của Saddam với các thanh tra vũ khí, kế hoạch của Mỹ nhằm lật đổ ông đã gặp phải sự phản đối dữ dội bất ngờ từ các quốc gia châu Âu. Pháp, Nga và Đức và nhiều nước nữa đều phản đối việc sử dụng quân đội, khiến cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc không thể thông qua một Nghị quyết an ninh mới cho phép sử dụng quân đội chống lại Irắc. Ngay cả tại các quốc gia mà chính phủ ủng hộ Mỹ thì dân chúng cũng lên tiếng phản đối rộng rãi kế hoạch này. Anh trở thành đồng minh quan trọng nhất của Mỹ trong cuộc chiến sau đó; Australia và đa số các quốc gia mới độc lập ở Đông Âu cũng tham gia hỗ trợ. Chính phủ Tây Ban Nha và Italia cũng gửi quân đội đến tham chiến. Thổ Nhĩ Kỳ, một đồng minh đáng tin cậy lâu nay của Mỹ, đã từ chối không tham gia liên quân.
Vào ngày 19/3/2003, các toán quân Anh - Mỹ, được các toán quân đến từ một số quốc gia khác hậu thuẫn, đã bắt đầu xâm lược Irắc từ phía Nam. Các toán không kích nhỏ ở miền Bắc phối hợp với quân đội của người Kurd. Trên cả 2 mặt trận, quân đội Irắc đều chống trả rất quyết liệt nhưng đều nhanh chóng bị đánh bại. Thủ đô Bát- đa đã thất thủ ngày 9/4. Ngày 14/4, các quan chức Lầu Năm góc tuyên bố chiến dịch quân sự đã kết thúc.
Xâm chiếm Irắc là một công việc dễ dàng hơn nhiều so với việc quản lý đất nước này. Ngay ngày đầu tiên sau khi chiến dịch quân sự kết thúc, trên toàn lãnh thổ Irắc xảy ra các vụ cướp bóc. Các cuộc tấn công du kích vào liên quân diễn ra liên tiếp và sau đó, trở thành một hoạt động có tổ chức, mặc dù Saddam Hussein đã bị bắt giữ và hai con trai cùng người kế nhiệm của ông đã bị giết. Trong thời gian này, nhiều bè phái khác nhau trên đất nước Irắc đã quay sang gây chiến tranh chống đối lẫn nhau.
Các đội thanh tra vũ khí mới cũng không thể tìm ra được các kho vũ khí hóa học và sinh học. Mặc dù điều này được lý giải theo cách nào đi chăng nữa thì người Mỹ vẫn cứ cho rằng có nhiều khả năng vũ khí đã được chuyển tới một quốc gia khác.
Sau khi Bát-đa thất thủ, Anh và Mỹ, với sự hợp tác chặt chẽ hơn của Liên Hợp Quốc, đã tiến lên thành lập một chính phủ lâm thời nhằm bảo đảm một chính thể mới trên toàn Irắc. Nỗ lực này diễn ra giữa tình trạng bạo lực ngày càng tăng, nhưng vụ bạo lực không chỉ nhằm vào các toán quân đồng minh mà còn vào những người Irắc có bất cứ quan hệ nào với chính phủ mới. Đa số các vụ tấn công này là do những người trung thành với Saddam gây ra, còn lại là do các phần tử Hồi giáo. Không rõ là một quốc gia mới liệu có thể được thành lập trong cảnh hỗn loạn này hay không, nhưng chắc chắn rằng nước Mỹ không thể áp đặt một chính phủ mới nếu chính người dân Irắc không mong muốn điều đó.
CUỘC BẦU CỬ TỔNG THỐNG NĂM 2004
Giữa năm 2004, khi nước Mỹ phải đương đầu với các vụ xung đột tại Irắc và làn sóng phản đối chiến tranh Irắc từ bên ngoài, thì trong nội bộ, đất nước lại một lần nữa bị chia rẽ thậm chí ở mức độ sâu sắc hơn so với bốn năm trước. Thách thức của Tổng thống Bush là một ứng cử viên Đảng Cộng hòa - Thượng nghị sỹ John F. Kerry bang Massachusetts. Kerry là một cựu binh trong Chiến tranh Việt Nam, có kinh nghiệm lâu năm tại Washington, có tính quyết đoán và tài hùng biện. Tất cả những phẩm chất này khiến ông trở thành ứng cử viên lý tưởng để đoàn kết những thành viên trong đảng của mình trong cuộc tranh cử. Chiến lược tranh cử ban đầu của ông nhằm tránh sự chia rẽ sâu sắc giữa các thành viên trong Đảng Dân chủ trong các vấn đề liên quan đến chiến tranh. Đồng thời, ông nhấn mạnh ưu điểm của mình là đã từng tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam nên ông có khả năng quản lý tốt hơn hành dộng quân sự tại Irắc so với Bush. Tuy nhiên, các đảng viên Cộng hòa lại nhấn mạnh vào việc Kerry đầu tiên đã bỏ phiếu đồng ý trao cho tổng thống quyền xâm lược Irắc thế nhưng sau đó lại bỏ phiếu chống lại những khoản chi cho chiến tranh. Thêm vào đó, một nhóm cựu binh sỹ trong Chiến tranh Việt Nam đã chỉ trích quá khứ tham gia quân đội của Kerry và chủ nghĩa vận động phản chiến sau đó của ông.
Ngược lại, Bush đã tự khắc họa mình là một nhân vật luôn thẳng thắn và nhất quán trong cả lời nói lẫn hành động, một con người hành động luôn sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần thiết để làm mạnh thêm đất nước. Ông nhấn mạnh vào các chương trình cắt giảm thuế và các cải cách giáo dục, đồng thời tiếp tục đề cao các giá trị đạo đức truyền thống. Các cuộc điều tra dư luận đã chỉ ra rằng Kerry đã giành được một tỉ lệ ủng hộ nhất định trong vòng tranh luận đầu tiên trong ba vòng tranh luận, nhưng ứng cử viên này đã không làm suy giảm được sự ủng hộ quan trọng đối với vị tổng thống đương nhiệm. Giống như vào năm 2000, Bush đã giành được sự ủng hộ của đa số người Mỹ - những người đi lễ nhà thờ ít nhất một lần mỗi tuần và số cử tri sùng đạo Thiên Chúa ủng hộ ông đã tăng lên kể từ cuộc tổng tuyển cử năm 2000.
Nhịp độ tổ chức các cuộc vận động tranh cử đã diễn ra gấp rút và gay cấn. Cả hai ứng cử viên đều ra sức lôi kéo sự ủng hộ. Số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu phổ thông đã tăng gần 20% so với năm 2000. Bush đã thắng cử với 51% so với 48%, còn lại 1% phiếu bầu cho Ralph Nader và một số ứng cử viên tự do khác. Kerry có vẻ như đã không thành công trong việc thuyết phục đa số dân Mỹ rằng ông có một chiến lược hiệu quả để kết thúc chiến tranh. Các đảng viên Cộng hòa cũng đã giành được những thành công nhỏ nhưng quan trọng trong Quốc hội.
Vào thời điểm George W. Bush bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của mình, nước Mỹ đang phải đối mặt với nhiều thách thức cùng một lúc: tình hình ở Irắc, căng thẳng trong Liên minh Đại Tây Dương, có một phần liên quan đến Irắc, thâm hụt ngân sách tăng lên, chi phí cho an sinh xã hội tăng cao, và giá trị của đồng đô-la không ổn định. Các đại cử tri vẫn tiếp tục mâu thuẫn sâu sắc. Trong quá khứ, nước Mỹ đã lớn mạnh từ những cuộc khủng hoảng tương tự. Tuy nhiên, liệu nước Mỹ có lại phát triển trong tương lai hay không, ta vẫn còn phải đợi thời gian trả lời.
LỜI KẾT
Từ thuở sơ khai là một số vùng thuộc địa vô danh bên bờ biển Đại Tây Dương, Hoa Kỳ đã trải qua một thời kỳ lịch sử chuyển biến lớn lao để trở thành một xứ sở mà nhà phân tích chính trị Ben Wattenberg từng gọi là dân tộc có tầm cỡ thế giới, với số dân gần 300 triệu người, đại diện cho hầu hết các quốc tịch và nhóm dân tộc trên trái đất. Đó cũng là một dân tộc mà tại đó, tốc độ và phạm vi của sự thay đổi - về kinh tế, công nghệ, văn hóa, nhân khẩu học và xã hội - đã diễn ra không ngừng. Hoa Kỳ luôn luôn là người đi đầu trong việc hiện đại hóa và tiến bộ, là những bước đi tất yếu nhằm thúc đẩy các dân tộc và các xã hội khác trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tương tác với nhau.
Tuy vậy, nước Mỹ vẫn giữ được một ý thức về sự tiếp nối, một loạt các giá trị truyền thống vẫn được bảo tồn từ thuở lập quốc. Những giá trị đó bao gồm niềm tin vào tự do cá nhân, vào một chính quyền dân chủ và vào một cam kết về cơ hội kinh tế và tiến bộ cho tất cả mọi người. Sứ mệnh lâu dài của nước Mỹ là bảo đảm cho các giá trị về tự do, dân chủ và cơ hội - di sản của một tiến trình lịch sử phong phú, đầy biến động - luôn được bảo vệ và đơm hoa kết trái khi nước Mỹ và toàn bộ thế giới bước sang thế kỷ XXI.
Nguồn: http://www.maxreading.com/sach-hay/khai-quat-ve-lich-su-nuoc-my/gioi-thieu-3087.html