Bệnh giun móc/giun mỏ (Ancylostomiasis/necatoriasis)
Chúng ta thường gọi chung là giun móc nhưng thực ra chúng có hai loại là giun móc Ancylostoma duodenale và giun mỏ Necator americanus. Tại Việt Nam, loại giun mỏ phổ biến và chiếm tỷ lệ khoảng 90%; còn loại giun móc chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 10%. Ở hầu hết các cơ sở y tế chưa có điều kiện để phân biệt hai loại giun này nên được gọi chung là giun móc.
Bệnh giun móc và giun mỏ thuộc họ Ancylostomidae ký sinh ở người. Khi mắc bệnh giun móc và giun mỏ nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời người bệnh sẽ lâm vào tình trạng thiếu máu nặng.
Giun móc ký sinh bằng cách ngoạm 2 đầu móc vào niêm mạc ruột để hút máu, gây ra những vết loét, gây chảy máu rỉ rả nên người bị thiếu máu thiếu sắt. Thậm chí, có khi bội nhiễm vi khuẩn xâm nhập gây vết loét thành ruột.
Đầu và miệng giun móc
Giun móc đang hút máu thành ruột
Trứng giun móc và ấu trùng gium móc chui qua da.
1. Dịch tễ
- Bệnh giun móc/giun mỏ lưu hành ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Dân ở nông thôn nhiễm cao hơn dân ở thành thị, đặc biệt là dân vùng trồng rau màu hoặc cây công nghiệp như dâu tằm, mía, cà phê, thuốc lá, ở vùng mỏ than.
- Giun móc hút khoảng 0,2-0,34ml máu/ngày. Giun mỏ hút khoảng 0,03-0,05ml máu/ngày. Ngoài tác hại giun hút máu, giun móc/giun mỏ còn gây viêm hành tá tràng và tiết ra chất chống đông máu, chất độc ức chế cơ quan tạo máu sản sinh hồng cầu làm trầm trọng thêm tình trạng mất máu của bệnh nhân
2. Nguồn lây
- Ổ chứa: là người, đặc biệt là người hay tiếp xúc với đất nhiễm phân.
- Thời gian ủ bệnh: Thời gian từ khi ấu trùng xâm nhập vào cơ thể qua da, niêm mạc lên tim, phổi và bị nuốt trở lại vào dạ dày, ruột non đến khi thành giun trưởng thành khoảng 42 - 45 ngày.
+ Trường hợp ấu trùng xâm nhập vào cơ thể qua đường thức ăn, nước uống thì chúng không di chuyển qua phổi mà ký sinh trực tiếp tại tá tràng hoặc ruột non.
+ Qua đường da, niêm mạc: ấu trùng giun móc/giun mỏ giai đoạn III xâm nhập vào cơ thể người qua da, niêm mạc (kẽ ngón chân, cẳng chân...) theo tĩnh mạch về tim, phổi. Tại phổi, ấu trùng thay vỏ 2 lần thành ấu trùng giai đoạn IV và V, ấu trùng giai đoạn V lên họng hầu và được nuốt lại xuống ruột, ký sinh ở tá tràng và phát triển thành giun móc/giun mỏ trưởng thành.
3. Phương thức truyền bệnh
- Qua đường ăn uống: thức ăn, nước có nhiễm ấu trùng. Không có lây truyền trực tiếp từ người sang người.
- Qua đường da, niêm mạc: Tất cả mọi người đều có thể nhiễm giun móc/giun mỏ, đặc biệt là những người nông dân vùng trồng màu, cây công nghiệp, dân có tập quán sử dụng phân tươi trong canh tác nông nghiệp.
4. Biểu hiện lâm sàng
Bệnh không có triệu chứng lâm sàng đặc hiệu mà chủ yếu là biểu hiện thiếu máu.
- Thiếu máu: da và niêm mạc nhợt nhạt, thường thấy phù nhẹ ở mặt và chân tay, tim có tiếng thổi tâm thu cơ năng... Xét nghiệm máu thấy huyết cầu tố giảm 40 đến 20% hoặc thấp hơn, hồng cầu có thể dưới 1 triệu/ml máu, có hồng cầu biến dạng; bạch cầu ái toan tăng cao, có thể trên 60% nhất là khi mới nhiễm. Những bệnh nhân ở vùng lưu hành bệnh giun móc thường xuyên bị tái nhiễm, triệu chứng tăng bạch cầu ái toan không biểu hiện rõ. Những người bị nhiễm giun móc nhiều lần trong thời gian 5 năm thấy có sự gia tăng immunoglobin IgE huyết thanh từ 0,12 đến 0,735 g/l. Sự rối loạn về máu và tuần hoàn do nhiễm giun móc có thể gây ra một số bệnh lý như thiếu máu, tình trạng thiểu năng albumin máu...
- Đau vùng thượng vị tuỳ theo mức độ nhiễm giun. Đau không có giờ nhất định, khi đói đau nhiều hơn, ăn không ngon miệng, khó tiêu.
- Khi ấu trùng giun móc/giun mỏ xuyên qua da có thể gây viêm da tại chỗ với các triệu chứng ngứa, có nhiều nốt màu đỏ và hết sau 1-2 ngày. Viêm da thường do giun mỏ gây ra nhiều hơn là giun móc.
- Cận lâm sàng: Thiếu máu do giun móc/giun mỏ là thiếu máu nhược sắc.
+ Giảm protein toàn phần. Đây là một biểu hiện bệnh lý quan trọng vì sự mất protein do giun móc lớn hơn mất hồng cầu. Ở những bệnh nhân nhiễm giun móc thì khả năng tổng hợp protein cũng bị hạn chế. Chất albumin giảm thường kèm theo biểu hiện phù nề. Việc điều trị chứng phù nề không có kết quả bằng các loại thuốc lợi tiểu có thủy ngân ngay cả sau khi đã hết thiếu máu. Tuy vậy chứng phù nề sẽ hết nhanh sau khi điều trị giun móc có kết quả.
+ Bạch cầu ái toan tăng 5-12%.
+ Soi phân (phương pháp xét nghiệm: kỹ thuật Kato hoặc Kato-Katz): có trứng giun móc/giun mỏ trong phân. Trứng giun móc và trứng giun mỏ tương đối giống nhau: trứng giun móc hình trái xoan, kích thước từ 40 - 60 m, ngoài là lớp vỏ không màu, nhẵn. Trong trứng có nhân, lúc sinh ra trứng đã có phôi bào.
5. Điều trị
Sử dụng một trong các loại thuốc sau:
- Albendazole.
- Mebendazole.
- Levammisol
6. Phòng bệnh
- Giữ vệ sinh sạch sẽ, ăn chín uống sôi.
- Làm sạch ngoại cảnh, diệt ấu trùng bằng cách rắc vôi bột ở những nơi ô nhiễm nặng.
- Hạn chế tiếp xúc với đất để tránh ấu trùng nhiễm vào người bằng cách đi ủng, đeo găng tay cao su.
- Không phóng uế bừa bãi,không sử dụng phân tươi để bón cây trồng, xử lý phân hợp vệ sinh.
Tài liệu tham khảo:
http://vncdc.gov.vn/vi/danh-muc-benh-truyen-nhiem/1109/cac-benh-do-giun