Ý nghĩa của xét nghiệm Anti - CCP

Cập nhật: 28/04/2014 Lượt xem: 27738

Ý nghĩa của xét nghiệm Anti - CCP (Cyclic Citrullinated Peptide Antibody)

PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm, BV 103 

Tên khác : CCP Antibody; Citrulline Antibody; Anti-citrulline Antibody; Anti-cyclic Citrullinated Peptide; Anti-CCP; ACPA

Tên chính : Cyclic Citrullinated Peptide Antibody

Xét nghiệm liên quan : Rheumatoid Factor (RF), Tốc độ máu lắng (ESR), Protein phản ứng C (CRP), Kháng thể kháng nhân (ANA: Antinuclear Antibody), xét nghiệm dịch khớp (Synovial Fluid Analysis)

Kháng thể kháng CCP ( Anti-CCP ) là tự kháng thể được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch, nó trực tiếp chống lại peptide citrullinated vòng. Citrulline là chất được sản xuất tự nhiên trong cơ thể trong quá trình chuyển hóa arginine, arginine là một acid amin. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc chuyển đổi từ arginine thành citrulline lại sản sinh ra các cấu trúc trung gian tạo thành một vòng tuần hoàn được gọi là peptide citrullinated. Sự biến đổi này và sự sản xuất kháng thể CCP thường xảy ra ở những người bị viêm khớp dạng thấp (RA-Rhumatoid Arthritis). Người ta suy đoán rằng sự hình thành CCP có thể đóng một vai trò trong quá trình viêm tự miễn thấy trong các khớp của những người bị viêm khớp dạng thấp. Các xét nghiệm phát hiện kháng thể CCP và đo lường kháng thể CCP trong máu giúp ích chẩn đoán bị viêm khớp dạng thấp.

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn hệ thống mạn tính gây viêm, đau, cứng khớp, và phá hoại khớp, thường thấy ở khớp bàn tay, bàn chân và các khớp khác khắp cơ thể. Nó có thể ảnh hưởng đến bất cứ ai ở bất cứ tuổi nào, nhưng nó thường phát triển trong độ tuổi từ 40 và 60, và khoảng 75% những người bị ảnh hưởng là phụ nữ. Quá trình diễn biến của viêm khớp dạng thấp và tiên lượng của nó là thay đổi. Nó có thể phát triển và tiến triển chậm hoặc nhanh chóng. Nó có thể thuyên giảm ở một số người và, trong một số ít, nó có thể tiến xa hơn. Nếu không điều trị, viêm khớp dạng thấp có thể rút ngắn tuổi thọ của một người có thể trong vòng vài năm, nhiều người bị tàn tật gây ảnh hưởng đến làm việc.

Có rất nhiều phương pháp điều trị có sẵn để giảm thiểu các biến chứng của viêm khớp dạng thấp, nhưng nó phụ thuộc vào việc chẩn đoán chính xác và bắt đầu điều trị trước khi tổn thương khớp phát triển đáng kể. Yếu tố dạng thấp (RF) là xét nghiệm máu chính được sử dụng để phát hiện viêm khớp dạng thấp và phân biệt nó với các loại viêm khớp do quá trình viêm khác. Tuy nhiên, độ nhạy và độ đặc hiệu của RF không lý tưởng, nó có thể âm tính trong những người có dấu hiệu lâm sàng của viêm khớp dạng thấp và dương tính ở những người không có. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các xét nghiệm kháng thể CCP có độ nhạy và độ đặc hiệu là bằng hoặc tốt hơn so với RF và có nhiều khả năng dương tính với viêm khớp dạng thấp sớm.

Năm 2010, tiêu chí phân loại viêm dạng khớp của Trường cao đẳng Thấp khớp Mỹ (ACR) bao gồm các xét nghiệm kháng thể ACCP, cùng với RF, như là một phần của tiêu chí để chẩn đoán viêm khớp dạng thấp. Theo ACR, kháng thể ACCP có thể được phát hiện trong khoảng 50-60% những người có viêm khớp dạng thấp sớm, sớm nhất là 3-6 tháng sau khi bắt đầu có triệu chứng. Phát hiện và chẩn đoán viêm khớp dạng thấp sớm cho phép các bác sĩ bắt đầu điều trị tích cực của tình trạng này, giảm thiểu các biến chứng kèm theo và tổn thương mô.

Nguyên lý định lượng

Hiện nay, anti-CCP trong huyết thanh được định lượng bằng kỹ thuật định lượng miễn dịch hóa phát quang (electrochemiluminescence immunoassay- “ECLIA”) bằng máy phân tích miễn dịch Elecsys – Cobase

Chỉ định xét nghiệm

 Xét nghiệm anti-CCP không được khuyến cáo sử dụng như là một xét nghiệm sàng lọc, nó được chỉ định trong các trường hợp sau:

+ Được chỉ định cùng với xét nghiệm RF để giúp chẩn đoán viêm khớp dạng thấp.

+ Cũng được chỉ định tiếp sau một xét nghiệm RF (-) tính, nhưng bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng như đau khớp và viêm khớp đối xứng, làm cho người thầy thuốc nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp.

+ Cũng có thể được chỉ định để giúp đánh giá sự tiến triển viêm khớp dạng thấp ở các bệnh nhân viêm khớp không đặc hiệu, có một số triệu chứng lâm sàng gợi ý nhưng không hội đủ các tiêu chuẩn của một viêm khớp dạng thấp.

Giá trị bình thường:

Giá trị của anti-CCP huyết tương người khỏe mạnh bình thường là < 17 U/mL); các giá trị anti-CCP ≥ 17 U/mL được coi là (+) tính.

Đối với bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, với ngưỡng tối ưu (optimal cut-off) của anti-CCP là 17 U/mL, độ nhạy của xét nghiệm là 67,4 % và độ đặc hiệu là 97,0

Ý nghĩa lâm sàng

Về nguyên tắc, các kết quả thu được cần phải được đánh giá trong sự kết hợp với các triệu chứng lâm sàng [1, 3, 4, 5].

+ Nếu cả anti-CCP (+) tính và RF (+) tính, bệnh nhân nhiều khả năng bị viêm khớp dạng thấp và có thể bệnh đang tiến triến nặng hơn.

+ Nếu anti-CCP (+) tính nhưng RF (-) tính và các triệu chứng lâm sàng thể hiện bị viêm khớp dạng thấp, bệnh nhân có thể bị viêm khớp dạng thấp giai đoạn sớm hoặc viêm khớp dạng thấp sẽ tiến triển trong tương lai. Theo một nghiên cứu ở Hoa Kỳ, khoảng 95% các bệnh nhân có anti-CCP (+) tính sẽ tiến triển thành viêm khớp dạng thấp trong tương lai.

+ Nếu anti-CCP (-) tính nhưng RF (+) tính và các triệu chứng lâm sàng thể hiện bị viêm khớp dạng thấp, bệnh nhân có thể bị viêm khớp dạng thấp hoặc bị một số các viêm khác.

+ Nếu cả anti-CCP và RF đều (-) tính, ít có khả năng bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, việc chẩn đoán viêm khớp dạng thấp chủ yếu dựa vào lâm sàng, do đó viêm khớp dạng thấp có thể được chẩn đoán với các triệu chứng lâm sàng điển hình ngay cả khi các kháng thể tự miễn (-) tính.

Một điều cần chú ý nữa là khi kết hợp giữa các xét nghiệm chẩn đoán viêm khớp dạng thấp như anti-CCP, RF, máu lắng và CRP trong chẩn đoán, ở những bệnh nhân đã được chẩn đoán viêm khớp dạng thấp, các xét nghiệm anti-CCP và RF (đã (+) tính) không cần làm lại nữa. Để theo dõi sự tiến triển của viêm khớp dạng thấp và đánh giá hiệu quả điều trị, chỉ cần theo dõi máu lắng và CRP theo thời gian là đủ.

Xét nghiệm kháng thể CCP có thể được chỉ định cùng hoặc sau xét nghiệm yếu tố dạng thấp (RF) để giúp chẩn đoán viêm khớp dạng thấp và để đánh giá mức độ nghiêm trọng và tiên lượng bệnh. Kháng thể CCP cũng có thể được chỉ định để giúp đánh giá sự tiến triển của viêm khớp dạng thấp ở những người bị viêm khớp, không phân biệt - những người có các triệu chứng bệnh nhưng chưa đáp ứng tiêu chuẩn của ACR cho viêm khớp dạng thấp. Theo ACR, khoảng 95% những người có kháng thể CCP dương sẽ đáp ứng các tiêu chí của viêm khớp dạng thấp trong tương lai.

Khi nào được chỉ định?

Xét nghiệm kháng thể CCP chủ yếu được chỉ định cùng với xét nghiệm RF khi một người nào đó có dấu hiệu và triệu chứng có thể là do viêm khớp trước đó không được chẩn đoán hoặc đã được chẩn đoán viêm khớp không phân biệt. Nó có thể được chỉ định như một thử nghiệm tiếp theo xét nghiệm RF âm tính khi các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng dẫn cho các bác sĩ nghi ngờ viêm khớp dạng thấp. Viêm khớp dạng thấp thường ảnh hưởng đến nhiều khớp đối xứng. Các dấu hiệu và triệu chứng có thể bao gồm:

   Phổ biến nhất là đau, nóng, sưng các khớp bàn tay và cổ tay

    Đau đôi khi ảnh hưởng đến khuỷu tay, cổ, vai, hông, đầu gối, và/hoặc bàn chân
    Độ cứng của các khớp bị ảnh hưởng trong buổi sáng và cải thiện trong ngày
    Mệt mỏi

    Sốt

    Phát triển nốt sần dưới da, đặc biệt là ở khuỷu tay

    Một cảm giác mệt mỏi (khó chịu)

Kết quả xét nghiệm có ý nghĩa gì?

Khi những người có dấu hiệu và triệu chứng của viêm khớp và dương tính cho cả hai xét nghiệm kháng thể CCP và RF, thì rất có khả năng là họ có viêm khớp dạng thấp và có khả năng là bệnh của họ có thể tiến triển nặng. Khi một người dương tính với kháng thể CCP nhưng âm tính với RF, hoặc có mức độ thấp của cả hai, và có dấu hiệu lâm sàng cho thấy viêm khớp dạng thấp, thì có khả năng là họ có viêm khớp dạng thấp sớm hoặc là họ sẽ phát triển viêm khớp dạng thấp trong tương lai.

Khi một cá nhân có âm tính với kháng thể CCP nhưng có một RF dương tính, thì các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng là rất quan trọng trong việc xác định liệu họ có viêm khớp dạng thấp hoặc một số tình trạng viêm khác. Khi một người nào đó âm tính với cả kháng thể CCP và RF, thì họ ít có khả năng có viêm khớp dạng thấp.Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh , viêm khớp dạng thấp là một chẩn đoán lâm sàng và có thể được thực hiện trong trường hợp không có xét nghiệm dương tính với kháng thể.

Điều gì khác nên biết?

Xét nghiệm kháng thể CCP là tương đối mới. Nó ngày càng được sử dụng rộng rãi nhưng hiện nay vẫn còn ít được yêu cầu so với xét nghiệm RF.

Kháng thể CCP hiếm khi được tìm thấy trong tình trạng tự miễn khác như bệnh lupus, bệnh Graves và hội chứng Sjogren, và hiếm khi có thể được phát hiện trong nhiễm siêu vi như viêm gan C.

Câu hỏi thường gặp

1. Tất cả mọi người nên được xét nghiệm kháng thể CCP?

Kháng thể CCP không được khuyến cáo như một xét nghiệm sàng lọc như RF, tốt nhất là sử dụng để đánh giá cá nhân có dấu hiệu lâm sàng cho thấy viêm khớp dạng thấp hoặc đã được chẩn đoán là viêm khớp không phân biệt.

2. Kháng thể CCP bao giờ sẽ biến mất?

Như tự kháng thể khác, một khi được phát triển bởi hệ thống miễn dịch của cơ thể, mức độ của Anti CCP có thể dao động theo thời gian nhưng sẽ không biến mất.

3. Bác sĩ có thể chỉ định những xét nghiệm khác để đánh giá viêm khớp dạng thấp không?

Bác sĩ có thể chọn để chỉ định một xét nghiệm bổ xung khác như tốc độ máu lắng (ESR) và/hoặc protein phản ứng C (CRP), xét nghiệm phát hiện viêm, hoặc cũng có thể xét nghiệm số lượng bạch cầu (CBC), một dấu hiệu của viêm và kiểm tra tình trạng thiếu máu, một tình trạng phổ biến ở những người bị viêm khớp dạng thấp. Để biết thông tin thêm, phân tích dịch khớp có thể được thực hiện. Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể yêu cầu thử nghiệm kháng thể kháng nhân (ANA) . Một ANA âm giúp loại trừ bệnh viêm khớp hệ thống như lupus ban đỏ và viêm khớp khác; ANA có thể dương tính trong một phần ba số bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

                                                                                                                    PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm

 


CHIA SẺ BÀI VIẾT

Bài cùng chủ đề

Bệnh thận - Tiết niệu

    Bệnh tim mạch

      Bệnh cơ-xương-khớp

        Bệnh nội tiết-chuyển hóa

          Bệnh tiêu hóa

            Bệnh phổi - phế quản

              Bệnh Thần kinh - Tâm thần

                Bệnh truyền nhiễm

                  Bệnh nhi khoa

                    Cận lâm sàng

                      Bệnh khác

                        Thuốc

                          Vật lý trị liệu

                            Phục hồi chức năng

                              Tư vấn và Chia sẻ thông tin

                                Sách đã xuất bản của Hà Hoàng Kiệm

                                  Bài báo khoa học

                                    SÁCH CỦA TÔI