Huyền Trân công chúa
Lịch sử phong kiến Việt Nam với biết bao ông hoàng bà chúa, việc làm của họ ít nhiều đều có ảnh hưởng nhất định đối sự phát triển dân tộc. Công chúa Huyền Trân là một trong những con người như vậy. Chính bà là người có sự đóng góp công lớn trong việc mở mang lãnh thổ về phía Nam (phía Nam tỉnh Quảng Trị và toàn tỉnh Thừa Thiên Huế nay nay).
Ngày nay có nhiều nhân định về bà, trong đó thiên về hai luồng ý kiến đó là khen và chê: khen là việc bà góp phần mở mang lãnh thổ Đại Việt thế kỷ XIV; chê là vì bà vướng án tư thông với Thượng Thư Tả Bộc Xa Trần Khắc Chung.
Công chúa Huyền Trân (1287 – 1340), con gái vua Trần Nhân Tông và hoàng hậu Thiên Cảm, hạ giá lấy vua nước Champa Chế Mân. Chính nhờ cuộc hôn nhân này một mặt làm cho mối quan hệ giao bang Đại Việt – Chăm pa trở nên thân thiết gây áp lực đến Trung Quốc ở phương Bắc. Mặt khác, sau cuộc hôn nhân này, lãnh thổ của Đại Việt được mở rộng về phía Nam.
Công chúa Huyền Trân (Ảnh minh họa)
Sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông (1293 – 1314). Để chúc mừng vua Trần Anh Tông lên ngôi, vua của nước Chăm pa khi đó tên là Chế Mân, hiệu là Jaya Simhavarman III (? – 1307) sai sứ sang mừng. Tháng 3 năm Tân Sửu 1301, Thượng hoàng Trần Nhân Tông có dịp viễn du sang Chăm Pa. Để tăng cường thêm mối quan hệ hòa hiếu giữa hai đất nước Đại Việt – Chăm Pa, vua đã hứa gả con gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân. Năm 1305, vua Chế Mân sai sứ là Chế Bồng Đài và hơn 100 người đem vàng, bạc, hương liệu quý, vật lạ đến dâng định xin sính lễ. Triều thần đều không bằng lòng, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Trần Khắc Chung tán thành. Sau đó Chế Mân dâng phần đất của hai châu Ô và châu Lý làm vật sính lễ. Tháng 6/1306 công chúa Huyền Trân được đưa về nước Chăm, sự việc này được nhân sĩ thời bấy giờ lấy làm đề tài để chê cười như: “Tiếc thay cây quế giữa rừng để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo”, “Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, đã vo nước đục lại vần lửa rơm”. Có thể nói đây là một cuộc hôn nhân mang đậm màu sắc chính trị. Cuộc hôn nhân này đã mang đến cho Đại Việt đất đai của hai châu Ô và châu Lý (năm 1307 được vua Trần Anh Tông đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu). Các huyện Triệu Phong, Hải Lăng (Quảng Trị ngày nay) và huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà (thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay) thuộc Thuận Châu xưa. Các huyện Phú Lộc, Phú Vang (Thừa Thiên Huế) và Hòa Vang (Đà Nẵng), Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên (Quảng Nam) thuộc Hóa Châu xưa. Người Chăm Pa đã mất cánh đồng Bình Trị Thiên và mất thêm cửa biển Tư Dung (nay là của biển Tư Hiền) thời ấy rất sâu và tiện lợi cho thủy quân Đà Nẵng.
Toàn cảnh Khu trung tâm văn hóa Huyền Trân tại thôn Ngũ Tây, phường An Tây, thành phố Huế.
Một năm sau khi công chúa Huyền Trân về Chăm Pa, đến năm 1307 vua Chế Mân mất. Theo phong tục của nước Chăm Pa khi đó theo đạo Bà La Môn, khi vua chết thì hoàng hậu cũng bị thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sợ em gái mình bị hại nên đã sai Thượng Thư Tả Bộc Xa Trần Khắc Chung và An Phủ sứ Đặng Vân lấy cớ điếu tang để đón công chúa Huyền Trân về. Khi sang nước Chiêm, Trần Khắc Chung đã nói với người Chiêm rằng “Nếu công chúa hỏa táng thì không ai chủ trương làm việc chay, chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn, đón linh hồn về, rồi công chúa sẽ lên giàn thiêu”. Khi ra đến biển, Trần Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp công chúa đưa về Đại Việt. Cuộc hành trình từ thành Chà Bàn về Thăng Long kéo dài 10 tháng, có ý kiến cho rằng hai người đã “tư thông” với nhau thì mới mất nhiều thời gian đến như vậy.
Điện thờ Công chúa Huyền Trân trong Khu trung tâm văn hóa Huyển Trân.
Tuy nhiên, về vấn đề này vẫn có quan điểm phủ nhận, vì cho rằng: Trần Khắc Chung là người giữ chức vụ lớn, tu thiền, được Nhân Tông khi đi tu rất yêu quý, khiến đề bạt tập sách “Tuệ Trung Thượng sĩ ngũ lục” do Pháp Loa biên tập và Nhân Tông hiệu đính. Phải là người có đạo đức thì mới được hân hạnh ấy. Mặt khác luật pháp nhà Trần rất nghiêm ngặt đối với tội tà dâm. Vậy mà sau khi từ Chăm Pa về Trần Khắc Chung vẫn được trọng dụng.
Có thể nói, đến nay sự thật của câu chuyện như thế nào thì đã theo nhân vật chính xuống mồ, do đó sự thật đối với hiện tại là một điều bí ẩn, chính vì vậy mà quan điểm tốt – xấu về bà vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, dù cho tốt – xấu thế nào thì vai trò của và đối với công cuộc mở mang bờ cõi về phía Nam của Đại Việt là một điều không thể phủ nhận. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả công lao đều thuộc về công chúa Huyền Trân nhưng bà chính là người trực tiếp đưa đến.
Tài liệu tham khảo:
1. Thu Nhuần. http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Nhan-vat-lich-su/2013/10/3A923BCF/
2. Cao Huy Giu (dịch), Đào Duy Anh (hiệu đính), Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, NXB Văn hóa thông tin, tr 518-520.
3. Phan Khoang, “Việt sử Xứ đàng trong 1558 – 1777”, NXB Văn học,
4. Trần Xuân Sinh, “Thuyêt Trần – sử nhà Trần”, NXB Hải Phòng, 2006.
5. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh, “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”, NXB Giáo dục.
6. http://www.tinmoi.vn/su-that-huyen-tran-cong-chua-tu-thong-voi-tran-khac-chung-011275185.html