Các chuỗi xung MRI

Cập nhật: 14/11/2020 Lượt xem: 75416

Các chuỗi xung MRI

1. Đại cương

1.1. Ưu nhược điểm của MRI so với CT

Cần khẳng định rằng cả MRI và CT đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng.

1.1.1. Ưu điểm của MRI so với CT

- Độ phân giải của hình ảnh cao hơn so với CT, độ phân giải hình ảnh của CT không cao đặc biệt đối với tổ chức phần mềm, do đó CT khó chẩn đoán các tổn thương có kích thước nhỏ, ví dụ tổn thương xơ hóa rải rác trong não, nhồi máu thân não, tổn thương não trong bệnh đái tháo đường… Tổn thương não ở vùng nền sọ trên CT đôi khi khó chẩn đoán do nhiễu ảnh (artifact).

- Có thể tạo ảnh trên cả ba bình diện: cắt ngang (Axial); đứng dọc (Sagittal) và đứng ngang (Coronal) với chất lượng như nhau.

- Không hại cho bệnh nhân, có thể chụp cho cả phụ nữ có thai.

- Với những máy có từ trường cao và phần mềm mạnh, có thể chụp mạch máu não mà không cần tiêm thuốc đối quang từ.

- Bệnh nhân không cần chuẩn bị gì đặc biệt (không cần nhịn ăn…), thời gian chụp không quá dài (20 – 30 phút).

1.1.2. Nhược điểm của MRI so với CT

Tuy nhiên so với CT, MRI cũng có một số nhược điểm sau:

- MRI chống chỉ định cho những bệnh nhân có kim loại trong người như máy tạo nhịp, còn phương tiện kết xương, vết thương hỏa khí..,

- Thời gian chụp dài hơn CT nên không thích hợp với bệnh nhân vật vã, kích thích.

1.2. Một số khái niệm cơ bản về tín hiệu MRI

- Bậc thang xám:

Để chẩn đoán bản chất của tổ chức bằng MRI, người ta thường dựa vào độ sáng tối và độ tương phản của tổ chức so với các mô lân cận. Khi mô tả độ sáng tôi của tổ chức và của dịch, người ta thường dùng khái niệm cường độ tín hiệu, ví dụ như:

+ Cường độ tín hiệu cao = màu trắng

+ Cường độ tín hiệu trung bình = màu xám

+ Cường độ tín hiệu thấp = màu đen

- Cường độ tín hiệu:

Ngoài ra có thể so sánh một cách tương đối cường độ tín hiệu của vùng chúng ta quan tâm với các tổ chức lân cận, ví dụ như:

+ Tăng tín hiệu (hyperintense) = sáng hơn vùng mà chúng ta so sánh

+ Đồng tín hiệu (isointense) = cùng độ sáng với vùng mà chúng ta so sánh

+ Giảm tín hiệu (hypointense) = tối màu hơn vùng mà chúng ta so sánh.

2. Ý nghĩa của các chuỗi xung trong chẩn đoán các bệnh lý thần kinh trung ương

Trong chụp cắt lớp vi tính, để chẩn đoán bản chất tổn thương cần dựa vào tỷ trọng. Chụp MRI lại dựa vào tính chất tín hiệu (tăng, giảm hay đồng tín hiệu so với tổ chức xung quanh). Các xung tần số radio (RF) có tần số khác nhau sẽ tạo ra sự cộng hưởng khác nhau và do đó thu được các hình ảnh có cường độ tín hiệu, độ sáng tối và độ tương phản tổ chức khác nhau. Trước tiên, có hai chuỗi xung cơ bản là T1W và T2W, chữ W ở đây có nghĩa là "trọng" hay “thiên về” (weighted) T1 hay T2.

2.1. Xung T1W

T1W là chuỗi xung dùng để tạo ảnh các cấu trúc giải phẫu, ảnh T1W tương tự như hình ảnh của CT. Ảnh T1W có đặc điểm tín hiệu như sau:

- Dịch (ví dụ như dịch não tủy): có cường độ tín hiệu thấp (màu đen).

- Cơ: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

- Mỡ: có cường độ tín hiệu cao (màu trắng).

- Não:

+ Chất xám: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

+ Chất trắng: Có cường độ tín hiệu cao hơn so với chất xám.

Hình 1. Ảnh T1W của một lát cắt ngang (axial) của não. Dịch não tủy màu đen. Chất xám màu xám. Chất trắng cường độ tín hiệu cao hơn so với chất xám.

Ảnh T1W tăng tín hiệu (màu trắng) gặp trong một số trường hợp:

- Ổ xuất huyết.

- Tổ chức mỡ.

- Melanome (U hắc tố)

- Nang dịch chứa protein cao.

- Tổn thương ngấm thuốc Rado

2.2. Xung T2W

Hình ảnh T2W có đặc điểm tín hiệu ngược với T1 như sau:

- Dịch (ví dụ như dịch não – tủy): có cường độ tín hiệu cao (màu trắng)

- Cơ: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

- Mỡ: có cường độ tín hiệu cao (màu trắng).

- Não:

+ Chất xám: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

+ Chất trắng: có cường độ tín hiệu thấp hơn so với chất xám.

Hình 2. Ảnh T2W của một lát cắt ngang (axial) của não cho thấy dịch não – tủy màu trắng, chất xám màu xám, chất trắng tối màu hơn chất xám.

Ngoài các chuỗi xung cơ bản T1W, T2W, hiện nay còn có rất nhiều chuỗi xung khác như PD (xung mật độ proton), FLAIR (xung xóa dịch), SPIR hay STIR (xung xóa mỡ), myelography (chụp tủy sống), PCA hay inflow (chụp mạch máu), perfusion (tưới máu), diffusion (khuếch tán), VISTA (chụp đám rối thần kinh cánh tay), phổ MRI, MRI chức năng… Các chuỗi xung của MRI có thể ví như những nốt nhạc góp phần tạo nên bản nhạc, bản nhạc mô tả tâm trạng con người giống như các chuỗi xung giúp xác định bản chất của tổ chức.

2.3. Chuỗi xung xoá mỡ (STIR, SPIR...), FATSAT

STIR (Short TI Inversion Recovery), chuỗi xung xóa mỡ là một tinh chỉnh dựa trên chuỗi xung T1W, dùng để làm giảm tín hiệu quá sáng của mỡ. Có một vài chuỗi xung xoá mỡ (SPIR, STIR…) nhưng đều cho kết quả như nhau. Hình của chuỗi xung STIR là âm bản của hình T1 bình thường thường. Do thời gian T1 của mỡ rất ngắn. Do vậy nếu sử dụng kỹ thuật khôi phục đảo ngược IR với thời gian TI ngắn gần với T1 của mỡ thì khi phát xung kích thích, mô mỡ sẽ không có tín hiệu vì độ từ hóa dọc lúc này vừa mới khôi phục về zero.

Chuỗi xung FATSAT (Fat saturative). Chúng ta đã biết cách xóa tín hiệu của một mô bằng kỹ thuật khôi phục đảo ngược IR (Inversion Recovery). Với kỹ thuật IR, người ta dùng một xung 180o trước khi phát xung kích thích, chờ một khoảng thời gian TI rồi phát xung kích thích. Tùy theo TI, độ từ hóa dọc của một mô nào đó khi phát xung kích thích sẽ gần như bằng zero và mô đó không có tín hiệu. Chúng ta đã có 2 loại xung như vậy: STIR và FLAIR.

Bây giờ, chúng ta dùng một cách khác, dùng một xung phù hợp để lật ngang độ từ hóa dọc của một mô, rồi sau đó nhiễu phá độ từ hóa ngang này, làm cho nó trở thành zero. Lúc này, nếu phát xung kích thích, mô đó không có độ từ hóa dọc, cũng chẳng còn độ từ hóa ngang: nó trơ với xung kích thích vì đã "bão hòa" (saturated). Kết quả là mô đó không còn tín hiệu hay đã bị xóa.

Áp dụng ý tưởng này để xóa mỡ, thay vì dùng xung STIR như đã biết. Khi đó, tận dụng độ xê dịch hóa học giữa nước và mỡ (cách biệt khoảng 3,5 ppm), người ta phát một xung chỉ cộng hưởng với mỡ, gọi là xung FAT-SAT, làm độ từ hóa dọc của mỡ lật ngang. Sau đó làm mất độ từ hóa ngang này bằng một thang từ thích hợp rồi mới phát xung kích thích. Kết quả là mỡ bị bão hòa (fat saturated) nên không cho ra tín hiệu.

Vì T1 của mỡ ngắn nên khi phát xung kích thích, độ từ hóa dọc của mỡ có thể khôi phục được một phần, và như vậy mỡ vẫn có một ít tín hiệu. Để có thể "diệt tận gốc" tín hiệu mỡ, xung FAT-SAT thường dùng một góc lật lớn hơn 90o, cỡ khoảng từ 100o đến 150o. Bằng cách này, độ từ hóa dọc của mỡ mới chỉ khôi phục về zero nên tín hiệu của mỡ bị xóa "trọn vẹn" hơn.

Chuỗi xung xóa mỡ thường được dùng trong ba trường hợp:

- Trựờng hợp phổ biến nhất là khi tiêm thuốc đối quang từ, xóa mỡ giúp cho mô ngấm thuốc xuất hiện nổi bật.

- Trong trường hợp muốn phát hiện phù nề trong tổ chức phần mềm, nơi có nhiều mỡ; xoá mỡ sẽ làm cho tín hiệu của dịch nổi bật.

- Trong trường hợp tổn thương nghi là mỡ, muốn chẩn đoán xác định cần sử dụng chuỗi xung này, tổn thương sẽ mất đi nếu là mỡ, nếu vẫn còn thì đó là tín hiệu dịch.

Ảnh lấy từ internet.

Chuỗi xung xóa dịch (FLAIR)

Khi muốn quan sát quầng phù nề trong nhu mô não mà không bị ảnh hưởng bởi dịch não – tuỷ quá sáng, chúng ta cần dùng chuỗi xung xóa dịch não – tuỷ (T2 FLAIR). Nếu nhìn thoáng qua, ảnh FLAIR hơi giống như ảnh T1W, tức là dịch não – tuỷ màu tối. Cách tốt nhất để phân biệt hai loại ảnh này là nhìn vào chất xám và chất trắng: T1W có chất xám tối hơn chất trắng, FLAIR (dù có hay không ức chế nước) sẽ có chất trắng tối hơn chất xám. Ảnh Flair chỉ khác ảnh T2 là nước bị xóa (DNT và dịch cuộn não) có àu tối. 

Hình 3. Ảnh MRI chuỗi xung T1, T2 và FLAIR

2.5. Chuỗi xung mật độ proton (PD: proton density)

Nguyên lý của MRI dựa trên hiện tượng cộng hưởng từ của proton (các ion hydro) cho nên tín hiệu MRI thực tế phản ánh mật độ proton; PD là chuỗi xung trung gian, có đặc điểm của cả T1 và T2. Chuỗi xung PD trước đây hay được sử dụng cho não, tuy nhiên gần đây chúng được thay thế bởi chuỗi xung FLAIR. Hiện nay, chuỗi xung PD thường được dùng để phân biệt tín hiệu của dịch, sụn trong và sụn xơ, do đó dùng chủ yếu trong chẩn đoán bệnh lý khớp. Đặc điểm tín hiệu trên ảnh PD như sau:

- Dịch (ví dụ như dịch khớp, dịch não – tủy): có cường độ tín hiệu cao (màu trắng)

- Cơ: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

- Mỡ: có cường độ tín hiệu cao (màu trắng).

- Sụn trong: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

- Sụn xơ: có cường độ tín hiệu thấp (màu đen).

2.6. Chuỗi xung nhạy (T2*, SWI...)

Chuỗi xung này nhạy cảm với hemoglobin và sắt, do đó nhạy cảm với hồng cầu bị thoái giáng giải phóng ra hemoglobin và sắt. Dùng để phát hiện máu, các sản phẩm của máu hoá giáng hoặc calci. Chuỗi xung này (thường được gọi tắt là xung T2*) rất nhậy cảm với những thay đổi nhỏ ở từ trường khu vực. Nhậy cảm nhất trong số những chuỗi xung này là SWI (susceptibility weighted imaging) dùng để phân biệt calci và máu. Chuỗi xung SWI được ứng dụng để làm rõ các mạch máu nhỏ và các tĩnh mạch trong não, phân biệt vùng xuất huyết và vùng calci hóa.

Hình 4. Hình ảnh chuỗi xung SWI

2.7. Chuỗi xung nhậy cảm dòng chảy

MRI có một ưu điểm lớn là có khả năng tạo ảnh dòng chảy sinh lý (ví dụ như dòng máu) mà không cần dùng thuốc đối quang đường tĩnh mạch. Điều này cho phép chụp được hình ảnh động mạch, tĩnh mạch và dòng chảy dịch não – tủy.

Các động mạch cấp máu cho não (đa giác Willis)                               Các xoang tĩnh mạch não

Các động mạch trong và ngoài sọ có tiêm    Các động mạch nội sọ trên máy MRI 3Tesla không tiêm thuốc  

                        đối quang từ                           đối quang từ: hình ảnh ổ xuất huyết do tổn thương động mạch                                                                                                             não giữa bên phải   

Hình 5. MRI mạch máu

2.8. MR tưới máu perfusion (MRP)

Lượng máu chảy vào tổ chức có thể phát hiện và định lượng được một cách tương đối thông qua các giá trị như: thể tích máu não (CBV – cerebral blood volume), lưu lượng dòng máu chảy qua não (CBF – cerebral blood flow) và thời gian trung bình máu qua não (MTT – mean transit time). Những giá trị này dùng để đánh giá một số tình trạng bệnh lý như xác định vùng tranh tối tranh sáng trong đột qụy thiếu máu cục bộ, đánh giá độ mô học của u hoặc phân biệt vùng hoại tử do tia xạ với tổ chức u đang phát triển. Để tìm hiểu chi tiết mời các bạn đọc bài sau: MRI tưới máu. http://hahoangkiem.com/can-lam-sang/mri-tuoi-mau-nao-perfusion-trong-chan-doan-nhoi-mau-nao-cap-3918.html

Hình 6. Chuỗi xung tưới máu perfusion

2.9. Chuỗi xung khuếch tán Diffusion (DWI)

Bình thường dịch ở ngoại bào khuếch tán tự do theo các hướng (không hạn chế khuếch tán), còn dịch trong nội bào bị hạn chế khuếch tán. Như vậy những vùng mới tổn thương gây phù tế bào làm dịch ngoại bào ít dịch nội bào tăng gây ra hiện tượng hạn chế khuếch tán của nước. MRI khuếch tán dùng để đánh giá sự khuếch tán của các phân tử nước trong một tổ chức. Nếu một cấu trúc bị hạn chế khuếch tán tức là bị phù tế bào thì ảnh DWI tăng tín hiệu có màu trắng còn ADC giảm tín hiệu có màu đen. Nếu tổ chức không hạn chế khuếch tán tức là không có phù tế bào thì DWI giảm tín hiệu có màu đen còn ADC tăng tín hiệu có màu trắng, ngoài ra còn cho phép quan sát bên trong tế bào (ví dụ như khối u), sự trương phình tế bào (ví dụ như thiếu máu cục bộ) và phù nề. Chuỗi xung khuếch tán cho phép chẩn đoán rất sớm nhồi máu não chỉ sau nhồi máu vài phút đến vài chục phút.

Đặc điểm hình ảnh MRI khuếch tán DWI là:

- Dịch (ví dụ như dịch não – tủy): không hạn chế khuếch tán (giảm tín hiệu: màu đen). Mô có phù nề tế bào gây hạn chế khuếch tán thì tăng tín hiệu có màu trắng.

- Mô mềm (cơ, các tạng đặc, não): khuếch tán trung gian (màu xám).

- Mỡ: mất ít tín hiệu do chứa ít nước.

Thông thường chụp MRI khuếch tán sẽ thu được ba loại hình ảnh: DWI, ADC và B = 0.

2.9.1. Hình ảnh khuyếch tán (DWI)

DWI (diffusion weighted imaging) hay bản đồ T2W đẳng hướng là sự kết hợp các giá trị khuếch tán thực với tín hiệu T2.

Đây là loại hình ảnh có độ phân giải tương đối thấp với các đặc điểm sau:

- Chất xám: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

- Chất trắng: hơi giảm tín hiệu so với chất xám.

- Dịch não – tuỷ: có cường độ tín hiệu thấp (màu đen).

- Mỡ: Rất ít tín hiệu do chứa ít nước.

- Các mô mềm khác: cường độ tín hiệu trung bình (màu xám)

Tổn thương trong các bệnh lý cấp tính (đột qụy thiếu máu cục bộ, khối u tế bào, viêm nhiễm cấp gây phù nề tế bào làm nước hạn chế khuếch tán) thường tăng tín hiệu trên MRI khuếch tán biểu thị sự khuếch tán hạn chế (tăng tín hiệu có màu trắng). Vùng không hạn chế khuếch tán sẽ giảm tín hiệu và có màu đen như dịch não tủy.  Tuy nhiên có một phần hình ảnh thu được từ tín hiệu T2 do đó một số mô sáng trên T2 sẽ sáng trên hình ảnh DWI mà thực tế không có hạn chế khuếch tán, do đó cần lập bản đồ ADC để xác định.

2.9.2. Bản đồ Hệ số khuếch tán (ADC maps)

Bản đồ hệ số khuếch tán (ADC – apparent diffusion coefficient maps) là hình ảnh đặc trưng cho các giá trị khuếch tán thực của các mô mà không có tác dụng của T2. Do đó chúng là phép đo hữu ích và khách quan hơn giá trị khuếch tán, tuy nhiên hình ảnh không được rõ nét. Về cơ bản chúng là những hình ảnh DWI đảo ngược thang xám, nghĩa là những mô có hạn chế khuếch tán thì giảm tín hiệu nên có màu đen, các mô không hạn chế khuếch tán thì tăng tín hiệu có màu trắng chẳng hạn dịch não tủy.

Đặc điểm tín hiệu trên ADC như sau:

- Chất xám: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

- Chất trắng: hơi tăng tín hiệu so với chất xám.

- Dịch não – tủy: có cường độ tín hiệu cao (màu trắng).

- Mỡ: Rất ít tín hiệu do chứa ít nước có màu tối.

- Các mô mềm khác: có cường độ tín hiệu trung bình (màu xám).

- Bệnh lý cấp tính (đột qụy thiếu máu cục bộ, khối u tế bào, viêm nhiễm cấp, gây phù tế bào làm hạn chế khuếch tán) thường giảm tín hiệu có màu đen, biểu thị sự khuếch tán hạn chế.

2.9.3. Hình ảnh B = 0

Dùng để tính toán các giá trị ADC.

Chúng là những hình ảnh T2W với một chút hiệu ứng nhạy cảm.

Để tìm hiểu sâu hơn về MRI khuếch tán mời các bạn đọc thêm bài: MRI khuếch tán trong: http://hahoangkiem.com/can-lam-sang/mri-khuech-tan-dwi-trong-chan-doan-nhoi-mau-nao-cap-3917.html

Hình 7. Chuỗi xung khuếch tán Diffusion DWI và bản đồ ADC

2.10. Chụp MRI đường dẫn truyền thần kinh (tractography)

Chụp MRI đường dẫn truyền thần kinh dựa trên nguyên lý: khi nựớc ở trong môi trường tự do (dịch não – tủy), phân tử nước khuếch tán ngẫu nhiên theo các chiều như nhau – khuếch tán đẳng hướng. Tuy nhiên, trong tổ chức, đặc biệt là tổ chức thần kinh, phân tử nước chỉ khuếch tán theo những chiều nhất định, cụ thể là khuếch tán theo chiều của các sợi hay bó dẫn truyền thần kinh – khuếch tán bất đẳng hướng. Trong nhồi máu não, nhu mô não bị tổn thương kèm theo hiện tượng phù độc tế bào, sự khuếch tán của phân tử nước mất tính bất đẳng hướng và MRI khuếch tán có thể phát hiện sớm tổn thương này, kể cả trong giai đoạn tối cấp, khi hình ảnh CT hoàn toàn bình thường hoặc chỉ thay đổi một cách kín đáo. Những nghiên cứu trên thực nghiệm cho thấy, MRI khuếch tán có thể phát hiện vùng thiếu máu, mới chỉ xảy ra trong vòng vài phút, trong khi không quan sát thấy trên phim CT scan.

Hình 8. Ảnh MRI khuếch tán Ổ nhồi máu não ờ vùng thái dương phải, sát thành của não thất bên, tuy nhiên trên CT không thấy được vùng tổn thương.

Chụp đường dẫn truyền thần kinh (fiber track) dựa trên sự khuếch tán bất đẳng hướng của phân tử nước trong các bó thần kinh có chứa myelin, do đó cho phép chụp các đường dẫn truyền trong hệ thống thần kinh trung ương. Khi đường dẫn truyền bị tổn thương (nhồi máu não, xuất huyết não, u não…), nước sẽ không khuếch tán theo chiều của các bó dẫn truyền, do đó tạo thành hình ảnh gián đoạn của các bó thần kinh.

Hình 9. Ảnh chụp bó dẫn truyền thần kinh của một bệnh nhân BN Lê Mạnh T., 62 tuổi, liệt nửa người phải do xuất huyết não vùng thái dương trái. MRI khuếch tán: Hình ảnh bó tháp bên trái (Fiber 01) bị tổn thương thể hiện bằng số lượng sợi (lines), số lượng điểm ảnh (voxels), chiều dài (length), hệ số khuếch tán từng phần (FA) giảm so với bên đối diện (Fiber 06)

2.11. Tiêm thuốc đối quang từ

Chất đối quang thường dùng nhất trong MRI là gadolinium. Ở nồng độ sử dụng, chất này có tác dụng làm tăng tín hiệu trên ảnh T1 (nên đôi khi nhầm lẫn gọi là xung T1 rút ngắn). Chất đối quang được tiêm tĩnh mạch với liều từ 5 đến 15ml, chụp MRI được tiến hành sau tiêm vài phút. Mô bệnh lý (u hay các vùng viêm nhiễm) sẽ bắt thuốc đối quang (do các mạch máu bị tổn thương làm phá vỡ hàng rào máu não gây rò rỉ thuốc) và sáng hơn so với các mô xung quanh. Thường các chuỗi xung T1 có tiêm thuốc cũng là các chuỗi xung xóa mỡ với mục đích là quan sát tổn thương được dễ dàng hơn.

Tiêm đối quang từ thường được tiến hành trên xung T1W bởi vì trên nền tối, tổn thương ngấm thuốc đối quang sẽ bắt màu sáng, dễ so sánh hình ảnh trước và sau tiêm, dễ phát hiện tổn thương. Nếu tiêm trên hình ảnh T2W thì sẽ khó phân biệt tổn thương bắt thuốc có màu sáng và nước trên ảnh T2W.

2.12. MR phổ

Các hợp chất khác nhau tương tác với từ trường của máy MRI cũng khác nhau, do đó có thể định lượng chúng ở một vùng mô nhất định thông qua MRI phổ. Các hợp chất này đặc trưng cho từng loại tổ chức, giúp chẩn đoán và phân độ u, giúp chẩn đoán phân biệt u và áp- xe.

2.13. MRI chức năng

Bộ não con người điều khiển dòng máu qua nó rất chặt chẽ và theo từng khu vực. Vùng não nào hoạt động thì dòng máu qua đó sẽ tăng cường và điều này có thể phát hiện được băng MRI chức năng. Bằng các kích thích vận động, cảm giác, thị giác, thính giác… mà chúng ta có thể ghi được hoạt động của các vùng não tương ứng.

2.14. Chuỗi xung VISTA

Chuỗi xung này dùng để chụp các đám rối thần kinh như đám rối thần kinh cánh tay, đám rối thắt lưng.

Hình 10. Hình ảnh MRI đám rối thần kinh cánh tay của một bệnh nhân. Đứt hoàn toàn thân thần kinh các rễ C6, C7, C8 bên phải (mũi tên) phía ngoài lỗ ghép, rễ C5 còn nguyên vẹn, rễ Th1 phù nề).

3. Hình ảnh MRI trong đột quỵ

3.1. Đột qụy nhồi máu

Hình ảnh MRI nhồi máu não thay đổi phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh: tối cấp (dưới 6 giờ), cấp (6 – 48 giờ), bán cấp (48 giờ – 3 tuần) và mạn tính (trên 3 tuần). Trong giai đoạn tối cấp, cấp và bán cấp, nhìn chung tổn thương là một vùng giảm tín hiệu trên ảnh T1W và tăng tín hiểu trên ảnh T2W, T2W FLAIR Trong giai đoạn mạn tính, vùng tổn thương giảm tín hiệu mạnh trên ảnh T1W và tăng tín hiệu mạnh trên ảnh T2W, riêng trên ảnh T2W FLAIR tín hiệu có thể tăng hoặc giảm. Dấu hiệu choán chỗ thường xuất hiện trong tuần đầu và giảm dần theo thời gian. Vùng nhồi máu rộng thường hay gặp dấu hiệu choán chỗ nhưng mức độ ít hơn so với u não và áp – xe não. Nhồi máu ổ khuyết thường do tổn thương các động mạch xuyên, đó là những ổ giảm tín hiệu trên ảnh T1 w và tăng tín hiệu trên ảnh T2W, khu trú ở vùng bao trong và các nhân xám trung ương hoặc cạnh thân hai não thất bên, đường kính nhỏ hơn 10-15 mm. Trên một bệnh nhân có thể gặp nhiều ổ khuyết với các giai đoạn cũ mới khác nhau.

Hình 11. Hình ảnh MRI của một bệnh nhân đột qụy não. Bệnh nhân Nguyễn Văn T., 69 tuổi, rối loạn thăng bằng. MRI: Tại bán cầu tiểu não phải thấy một vùng tăng tín hiệu trên ảnh T2W và giảm tín hiệu trên ảnh T1W, hình tam giác, đáy hướng ra ngoài, ranh giới rõ, đường giữa bị đè đẩy sang trái. MRA: Co thắt động mạch tiểu não trước-dưới bên phải (xuất phát từ động mạch nền).

3.2. Đột qụy chảy máu

Trong xuất huyết não, trên hình ảnh MRI máu hóa giáng thể hiện qua các giai đoạn sau: A: Hồng cầu chứa oxyhemoglobin (HbO2) có tín hiệu tương đương với não trên cả ảnh T1W và T2W bắt đầu thoát mạch ra ngoài. B: Oxyhemoglobin của một số hồng cầu ở trung tâm biến thành deoxyhemoglobin (DE), có tín hiệu thấp trên ảnh T1W. Cục máu đông đựợc bao quanh bởi quầng phù não, có tín hiệu cao trên ảnh T2W. C: Đa số oxyhemoglobin biến đổi thành methemoglobin (MỊ, có tín hiệu cao trên cả ảnh T1W và T2W. Có thể vẫn còn tín hiệu thấp của DE ở trung tâm, quang phù não rộng hơn. D: Hồng cầu vỡ để lại nang xuất huyết chứa methemoglobin có tín hiệu cao trên cả ảnh T1W và T2W, quầng phù não tan đi. Đại thực bào (3 chấm) bao quanh các hốc chứa hạt hemosiderin (H), có tín hiệu thấp trên ảnh T2W và T1W. Hình ảnh này có thể tồn tại dai dẳng, thậm chí sau nhiều tháng.

Hình. 12. Các giai đoạn của máu hóa giáng.

T2W axial, TIW axial, T2W coronal

T1w sagittal                                                       Đa giác Willis

Hình 13. Hình ảnh MRI và MRA Xuất huyết ở vùng bao trong bán cầu trái do tổn thương động mạch não giữa bên trái, đoạn M1. (Bệnh nhân nữ, 65 tuổi, liệt nửa người phải).

Hình 14. Hình ảnh của các chuỗi xung MRI

Nguồn: https://thuocchuabenh.vn/benh-than-kinh/y-nghia-cua-cac-chuoi-xung-cua-cong-huong-tu-trong-chan-doan-cac-benh-ly-than-kinh-trung-uong.html


CHIA SẺ BÀI VIẾT

Bài cùng chủ đề

Bệnh thận - Tiết niệu

    Bệnh tim mạch

      Bệnh cơ-xương-khớp

        Bệnh nội tiết-chuyển hóa

          Bệnh tiêu hóa

            Bệnh phổi - phế quản

              Bệnh Thần kinh - Tâm thần

                Bệnh truyền nhiễm

                  Bệnh nhi khoa

                    Cận lâm sàng

                      Bệnh khác

                        Thuốc

                          Vật lý trị liệu

                            Phục hồi chức năng

                              Tư vấn và Chia sẻ thông tin

                                Sách đã xuất bản của Hà Hoàng Kiệm

                                  Bài báo khoa học

                                    SÁCH CỦA TÔI