HÌNH ẢNH MRI TRONG NHIỄM KHUẨN TUỶ SỐNG
Nói chung, các bệnh lý tuỷ có các dấu hiệu lâm sàng đa dạng phản ảnh rối loạn chức năng của các đường vận động hoặc cảm giác đặc biệt. Các bất thường trên MRI phản ảnh các biến đổi bệnh lý xảy ra ở các đường bị tổn thương này. Tính phức tạp và đa dạng của bệnh ảnh hưởng đến tuỷ sống đòi hỏi phải có kiến thức sâu về bệnh học thần kinh và chiến lược hình ảnh chính xác. Bài này nêu lên và minh hoạ các đặc điểm lâm sàng và hình ảnh ở các bệnh lý nhiễm khuẩn tuỷ sống.
1. Viêm tuỷ vi khuẩn và abscess tuỷ
Tụ cầu vàng và liên cầu là vi khuẩn xâm lấn tuỷ thường gặp nhất. Hiếm khi hình thành abscess tuỷ và nguồn lây nhiễm thường gặp nhất là lan theo đường máu. Abscess vi khuẩn đã được chứng minh là chỉ xảy ra trong trường hợp nhiễm khuẩn huyết . Nhiễm khuẩn kế cận qua xoang bì bẩm sinh có thể là cơ chế ở trẻ em. Thường gặp nhất ở tuỷ ngực với triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng phụ thuộc vào vị trí tổn thương. Bệnh thường có khiếm khuyết thần kinh vận động và cảm giác, đau lưng hoặc đau rễ (60%). 40% trường hợp có sốt. Tốc độ máu lắng có khuynh hướng tăng ở tất cả bệnh nhân bất chấp các dấu hiệu lâm sàng.
Cấy dịch não tuỷ thường vô khuẩn. Sự phát triển abscess trong tuỷ có thể có diễn tiến từ giai đoạn sớm của viêm tuỷ và từ giai đoạn muộn của viêm tuỷ cho đến giai đoạn cuối hình thành absces tuỷ. Tín hiệu cao trên T2W kèm bắt thuốc giới hạn kém rõ là dấu hiệu MRI thường gặp trong giai đoạn sớm. Bắt thuốc viền giới hạn rõ kèm phù xung quanh ở giai đoạn muộn của viêm tuỷ. Bắt quang giới hạn rõ sớm nhất thấy trong 7 ngày sau khi khởi đầu triệu chứng.
Thời gian này được cho là bắt đầu hình thành abscess trong tuỷ. Trong một báo cáo được công bố, một trường hợp viêm tuỷ tụ cầu vàng ở tuỷ cổ có tổn thương bắt thuốc đồng nhất mà không có tạo hang. Vì bệnh nhân cải thiện lâm sàng và hình ảnh sau khi điều trị kháng sinh, các tác giả đã chứng minh rằng dấu hiệu hình ảnh biểu hiện viêm tuỷ giai đoạn sớm giống như viêm não giai đoạn sớm về mặt bệnh học. Viêm tuỷ giang mai là biểu hiện hiếm gặp của giang mai thần kinh. Bất thường tín hệu cao trên T2W kèm bắt thuốc bề mặt tuỷ đã được nêu lên trong một số trường hợp viêm tuỷ giang mai. Sự biến mất bất thường tuỷ gợi ý bản chất phục hồi của tổn thương. Trong một trường hợp được công bố, có tín hiệu cao bất thường toàn bộ tuỷ.
Hình 1. Viêm cột sống nhiễm trùng sinh mủ ở bệnh nhân nam 80 tuổi. (A)Hình sagittal T1W thấy giảm tín hiệu tủy xương dưới sụn (mũi tên) cạnh đĩa đệm L2-3. (B) Hình sagittal T2W thấy tăng tín hiệu trong đĩa đệm L2-3 (đầu mũi tên) và abscess ngoài màng cứng (mũi tên). (C) Hình axial T2W thấy tổn thương tăng tín hiệu mô mềm cạnh sống (mũi tên trắng) và noài màng cứng (mũi tên đen). (D) Hình axial T1W sau tiêm thấy bắt thuốc viền của abscess cạnh sống (mũi tên trắng) và bắt thuốc ngoài màng cứng dạng viêm tấy (mũi tên đen). (e) Hình sagittal T2W hai tháng sau b cho thấy giảm abscess ngoài màng cứng (mũi tên) nhưng tiến triển của mòn bề mặt thân sống (đầu mũi tên).
2. Lao
Mặc dù các báo cáo về lao từ những nước đang phát triển và trong số những bệnh nhân HIV ngày càng tăng, Lao nội tuỷ là bệnh hiếm gặp. Các củ lao nội tuỷ gặp ở 0.002% các trường hợp lao và 0.2% trường hợp lao hệ thần kinh trung ương. MRI là phương pháp lựa chọn để phát hiện củ lao tuỷ sống (hình 1). Sưng phù tuỷ dạng hình thoi đã được ghi nhận ở 6 trong 7 trường hợp củ lao nội tuỷ với đồng hoặc tăng tín hiệu trên T1W. Trên T2W thường có tín hiệu thấp trung tâm và phù xung quanh tín hiệu cao trên T2W, một dấu hiệu gợi ý củ lao. Tăng tín hiệu trung tâm trên T2W có thể hiện diện là do bã đậu hoá và hoá lỏng ở mức độ nhỏ. Thường bắt quang đặc hoặc viền.
Hình 2. Hình trái: Lao nội tuỷ và trong màng cứng ngoài tuỷ. Trên hình sagittal T1W sau tiêm thấy bắt thuốc màng mềm dạng nốt. Một tổn thương bắt thuốc ở nội tuỷ là củ lao. Hình phải: Lao cột sống ở bệnh nhân nữ 44 tuổi. (A) hình sigittal T2W cho thấy hủy đốt sống - đĩa đệm nặng, tạo abscess ngoài màng cứng (đầu mũi tên) và ép tủy ngang mức T11 - T12. Abscess cạnh sống phía trước bị giới hạn bởi dây chằng dọc trước và lan dọc qua 4 đốt sống ngực thắt lưng (T10 - L1). (B) Hình sagittal T1W xóa mỡ sau tiêm thuốc, thấy rõ abscess dưới dây chằng bắt thuốc viền (mũi tên) mà không bao bọc động mạch gian sườn (đầu mũi tên). (C, D) Axial T2W (C) và T1W FS sau tiêm (D) cho thấy abscess cạnh sống giới hạn rõ (đầu mũi tên) với thành trơn láng, mỏng. Tủy bị ép nhẹ (mũi tên ở D) do abscess ngoài màng cứng phía trước.
3. Toxoplasmosis
Nhiễm Toxoplasma gondii tuỷ hiếm xảy ra ở bệnh nhân bị AIDS và kết hợp với nhiễm trùng não. Trong một nghiên cứu, 7.3% trong 55 bệnh nhân bị AIDS có nhiễm toxoplasma tuỷ sống. Trong phần lớn các báo cáo đã được công bố, thấy khối choán chỗ bắt thuốc ở tuỷ, tín hiệu thấp trên T1W, cao trên T2W. Ở một bệnh nhân bị AIDS liên quan với hemophilia, không có bất thường trên T1W và T2w, nhưng thấy có tổn thương bắt thuốc đồng nhất ở chóp tuỷ mà không có lớn tuỷ.
KẾT LUẬN
Hơn một thập niên qua, các nhà nghiên cứu và lâm sàng đã thu được những hiểu biết cốt lõi về bệnh lý nhiễm khuẩn tuỷ và có nhiều tiến bộ trong xử trí các bệnh này. Với sự phát triển thêm các kỹ thuật mới, như hình ảnh diffusion tensor và các máy MRI mạnh hơn, bệnh lý tuỷ có thể phân biệt với các bệnh khác và có thể đề ra được chiến lược điều trị có hiệu quả trước khi có tổn hại tuỷ xảy ra (hình 2)
Hình 2. Chẩn đoán phân biệt các tổn thương tuỷ dựa vào vị trí ở trên thiết diện cắt ngang tuỷ. (A) MS: Tổn thương hình chem. nằm ở phía sau liên quan với ít hơn 2/3 diện tích tuỷ trên hình axial T2W (B) Viêm tuỷ xám: Bắt thuốc rễ thần kinh phía trước trên hình axial T1W sau tiêm. (C) bệnh tuỷ không bào: Bất thờng tín hiệu cao đối xứng hai bên ở tuỷ bệnh nhân dương tính HIV. Chẩn đoán phân biệt: Thoái hoá kết hợp bán cấp. (D) Viêm tuỷ cắt ngang: Tổn thương tuỷ tín hiệu cao lớn hơn 2/3 diện tích tuỷ. (E) viêm tuỷ Herpes simplex virus: Bắt thuốc dạng nốt trên hình T1W sau tiêm ở phần bên tuỷ cổ. Chẩn đoán phân biệt mảng MS. (F) nhồi máu tuỷ: Sưng phần trước tuỷ trên hình axial, chỉ ra phần trước tuỷ dễ bị tổn thương thiếu máu.
Nguồn: https://hinhanhhoc.net/. Share: Cao Thiên Tượng từ NEUROIMAGING CLINICS OF NORTH AMERICA Volume 17, Issue 1, Pages 37-55 (February 2007)