Tự sự của bác sĩ cấp cứu về áp lực với thầy thuốc VN
Vnexpress. Thứ năm, 2/4/2015 | 18:25 GMT+7
Bác sĩ là một nghề vất vả. Thông thường với nghề nghiệp khác, các trí thức bậc cao hiếm khi phải trực tiếp làm công việc chân tay. Với nghề y là ngoại lệ.
Các giáo sư, giám đốc, thậm chí cả lãnh đạo cấp cao trong ngành vẫn trực tiếp tham gia khám bệnh, mổ xẻ. Còn với các bác sĩ thông thường thì mức độ quá tải công việc đến kiệt sức là điều thường xuyên xảy ra.
Một cuộc khảo sát quốc gia được công bố trong Archives of Internal Medicine vào năm 2012 cho thấy các bác sĩ Mỹ bị kiệt sức hơn so với người Mỹ thuộc ngành nghề khác. Khảo sát đầu năm 2015 của Medscape Physician Lifestyle Report cho thấy 46% số bác sĩ Mỹ trả lời rằng họ đã kiệt sức. Trong số các chuyên khoa thì các bác sĩ chuyên ngành Cấp cứu và Hồi sức tích cực là những người thường bị kiệt sức nhất. Thống kê của tạp chí Medscape ở châu Âu và Mỹ cho thấy tỷ lệ kiệt sức ở các bác sĩ chuyên ngành này đến 52-53%.
Hậu quả của việc kiệt sức và stress ở các bác sĩ là hàng năm tại Mỹ có tới 300 bác sĩ tự tử vì stress. Tỷ lệ bác sĩ tự tử cao gấp đôi so với các nhóm dân cư khác. Ngoài ra, do kiệt sức, họ có thể cảm thấy mất cảm xúc, mất hứng thú nhiệt tình với công việc.
|
Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp khám cho bệnh nhân trong dịch sởi nguy hiểm năm 2009. Ảnh: MP. |
Mệt mỏi với các thủ tục quan liêu
Tuân thủ đầy đủ các thủ tục hành chính không phải là điều dễ dàng đối với thầy thuốc, nhất là trong điều kiện bệnh nhân quá tải. Cho bệnh nhân hưởng chế độ bảo hiểm, chế độ nghỉ dưỡng sức hay kê loại thuốc, một biện pháp kỹ thuật đắt tiền... đòi hỏi các thủ tục phê duyệt chặt chẽ. Nếu không tuân thủ đúng có thể bị phê bình, thậm chí xuất toán và thầy thuốc phải tự bỏ tiền túi ra đền.
Bác sĩ có thể muốn cho bệnh nhân thuốc, những biện pháp kỹ thuật tốt nhất ngay cả khi họ chưa có bảo hiểm y tế và chưa có tiền nộp tạm ứng. Nhưng họ lại có thể bị phê bình, thậm chí nhiều bệnh viện còn xử phạt thầy thuốc nếu để bệnh nhân trốn viện hoặc chây ỳ trả tiền gây thất thoát tài chính. Thầy thuốc luôn bị giằng xé giữa mong muốn cho bệnh nhân hưởng chăm sóc cao nhất và nỗi lo ngại phải chịu trách nhiệm. Họ luôn muốn dành tất cả nỗ lực cho hoạt động chuyên môn nhưng lại phải phân tâm cho các thủ tục hành chính.
Làm việc quá giờ
Thông thường một thầy thuốc sau ca trực 24 giờ (tương đương 3 ngày làm việc 8 tiếng) sẽ được nghỉ bù ngày làm việc hôm sau. Tức là trong 2 ngày đó, họ phải đi làm đến 3 ca. Nếu họ đi trực vào ngày thứ bảy, chủ nhật thì có nghĩa là họ làm dư 3 ngày làm việc ngoài giờ nhưng chỉ được nghỉ bù ngày làm việc. Điều trị là quá trình liên tục nên đa số bác sĩ trong ngày nghỉ bù sẽ ở lại khám, cho thuốc các bệnh nhân của mình xong mới về. Tình trạng làm quá giờ sẽ trầm trọng hơn nhiều trong các vụ dịch, các đợt bệnh nhân quá tải.
Thống kê nhiều năm qua cho thấy thu nhập của ngành y đứng thứ gần thấp nhất trong 18 ngành nghề được khảo sát. Áp lực kinh tế khiến các thầy thuốc phải căng người ra làm thêm ngoài giờ để có thêm thu nhập, từ chuyện mổ tăng ca, làm thêm giờ ở bệnh viện đến việc làm phòng mạch tư ngoài giờ. Cá biệt, ở nhiều vùng miền, bác sĩ làm thêm ngoài giờ cả những công việc khác: Làm nghề phụ, làm trang trại nuôi trồng thủy sản, làm rẫy cà phê, cao su... Từng có bệnh viện cấm nhân viên làm thêm ngoài giờ nhưng đã vấp phải sự phản đối khá gay gắt của các thầy thuốc và dư luận cộng đồng.
Công việc quá tải
Cuộc khảo sát tại Mỹ năm 2014 của Quỹ Bác sĩ phát hiện 81% các bác sĩ đã làm việc hết công suất hoặc thậm chí quá mức và chỉ có 19% số bác sĩ có đủ thời gian để xem chi tiết bệnh nhân. Tại Việt Nam, tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương đã ở mức trầm trọng. Một bác sĩ phải khám khoảng 70-80 bệnh nhân mỗi ngày, mỗi bệnh nhân đến khám một lần và khi có xét nghiệm xong quay lại để kê đơn một lần nữa, như vậy với mỗi lần gặp 3 phút thì bác sĩ đó đã có 8 giờ làm việc không ngừng nghỉ. Với 3 phút khám và kê đơn thì khó mà đảm bảo kỹ càng. Vậy mà trong số hàng vạn đơn thuốc kê ra mỗi tháng, chỉ cần một đơn thuốc sai sót cũng đã đủ đẩy bác sĩ đó vào những phiền phức triền miên với cả bệnh nhân và dư luận xã hội.
Tình trạng quá tải công việc còn trầm trọng hơn nữa đối với những bác sĩ đồng thời tham gia cả công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Khi đó thời gian làm việc của họ không phải là 8 giờ mà có thể đến 10-16 tiếng mỗi ngày.
Áp lực học tập và cơ hội thăng tiến
Hiếm có ngành nghề nào mà áp lực học tập lại lớn như ngành y. Đa số các ngành nghề khác sau khi hoàn thành bậc học đại học là có thể ra làm việc tương đối độc lập. Đối với ngành y, sau khi tốt nghiệp đại học thì ít nhất các bác sĩ phải học thêm một khóa chuyên khoa định hướng 9 tháng mới có thể làm việc. Để trở thành bác sĩ chính phải học lên cao học hoặc chuyên khoa cấp một trong 2-3 năm và phải trải qua thời gian thực hành lâm sàng ít nhất 9 năm.
Ngành y có tính hội nhập cao. Trong khi nhiều ngành kỹ thuật, công nghệ thế giới đã làm được cả trăm năm qua mà Việt Nam vẫn chưa làm nổi thì trong ngành y, hầu hết các tiến bộ y học trên thế giới đều được các bác sĩ Việt Nam tiếp cận và triển khai thành công sau chỉ một vài năm. Chỉ cần vài năm không cập nhật kiến thức mới là một bác sĩ đàn anh có thể thua kém các đàn em của mình. Vì vậy, học tập liên tục trở thành một áp lực rất lớn đối với các bác sĩ.
Với đa số các ngành khác, chỉ cần trình độ đại học có thể nắm giữ các cương vị trưởng phòng, giám đốc thậm chí tổng giám đốc. Nhưng với ngành y, cơ hội thăng tiến gắn liền với việc học tập: Tiêu chuẩn bổ nhiệm trưởng khoa ở bệnh viện tuyến tỉnh ít nhất phải là bác sĩ chuyên khoa cấp một hoặc thạc sĩ, ở bệnh viện tuyến trung ương phải là bác sĩ chuyên khoa cấp 2 hoặc tiến sĩ.
Các áp lực của bệnh nhân đối với thầy thuốc
Người Việt Nam ít có thói quen xếp hàng. Khi vào khám bệnh, đặc biệt tại các phòng cấp cứu, họ thường có xu hướng quan trọng hóa bệnh tật của mình và ít quan tâm đến tình trạng trầm trọng của những người xung quanh. Chính vì thế họ thường xuyên gây áp lực với thầy thuốc để được khám trước, được chiếu chụp, siêu âm ngay hay phải xử trí tức thời, trong khi có rất nhiều bệnh nhân khác đến trước hoặc nặng hơn và đáng được ưu tiên cấp cứu hơn. Người nhà bệnh nhân ai cũng muốn mình là quan trọng nên dù bác sĩ đã gặp gỡ, trao đổi tình trạng bệnh của bệnh nhân với một đại diện của gia đình rồi thì khi một thành viên khác đến, họ lại yêu cầu bác sĩ gặp để trao đổi trực tiếp với mình. Điều này làm mất đi nhiều thời gian quý giá mà đáng ra bác sĩ có thể dành để cứu chữa bệnh nhân.
Việc không tuân thủ nội quy bệnh phòng của bệnh nhân và người nhà thăm nuôi cũng là điều khó chịu lớn đối với thầy thuốc. Rất nhiều bệnh nhân cố tìm hiểu y học qua những kiến thức vụn vặt, nhặt nhạnh được trên Internet hoặc qua truyền miệng nhưng lại coi đó là kiến thức y học thực sự. Họ can thiệp vào quá trình điều trị của bác sĩ hoặc tự ý thêm thuốc, bỏ thuốc trong đơn nhưng khi hậu quả xảy ra thì đa phần đều có xu hướng đổ lỗi cho quá trình điều trị của thầy thuốc.
Sự can thiệp của các thầy cúng, thầy bói vào quá trình điều trị trong đa số trường hợp cũng không phải là điều dễ chịu đối với thầy thuốc. Rất nhiều trường hợp bệnh nhân hoàn toàn có thể cứu chữa được nhưng gia đình kiên quyết xin ngừng điều trị vì thầy bói bảo không qua khỏi. Nhiều trường hợp khác họ xin ra viện để về cúng bái, để dùng các loại thuốc nhảm theo những lời mách bảo vu vơ.
Những thiệt thòi nghề nghiệp đặc trưng
So với ngành nghề khác, nhân viên y tế có những thiệt thòi mang tính đặc trưng nghề nghiệp riêng. Trong các dịp nghỉ lễ, Tết, hầu hết các ngành nghề khác được nghỉ thì nhân viên y tế phải tăng cường trực, vì thế các cơ hội đoàn tụ gia đình, đi du lịch xa là điều xa xỉ với nhân viên y tế. Điều kiện làm việc tập trung và đóng kín trong bệnh viện với những bộ quần áo blouse nên phụ nữ ngành y ít có cơ hội chưng diện thời trang cũng như mở rộng giao tiếp.
Điều làm tủi thân và đau lòng đối với nhiều nhân viên y tế, đặc biệt với phụ nữ, là khi con, chồng, cha mẹ và những người thân đau ốm, mình không ở nhà chăm sóc được mà vẫn phải đến bệnh viện chăm sóc bệnh nhân. Những điều này cũng góp phần tạo nên stress đối với nhân viên y tế.
Tình trạng kiệt sức và stress đối với nhân viên y tế đang là thực trạng ở nhiều nước trên thế giới, riêng Việt Nam có thể là tình trạng rất trầm trọng. Điều đó dẫn đến suy giảm hứng thú, nhiệt tình công tác, cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng sống của thầy thuốc và chất lượng phục vụ đối với bệnh nhân. Nó đòi hỏi chúng ta phải có các nghiên cứu khảo sát về nguyên nhân để đề xuất các chế độ chính sách phù hợp, nhằm cải thiện tình hình và hướng tới chất lượng sống tốt hơn cho thầy thuốc cũng như chất lượng phục vụ tốt hơn đối với bệnh nhân.
Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Trung Cấp
Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung Ương