Quá trình khám phá ra vi khuẩn dịch hạch của nhà bác học Alexandre Yersin

Cập nhật: 14/09/2015 Lượt xem: 5510

 QÚA TRÌNH KHÁM PHÁ RA VI KHUẨN BỆNH DỊCH HẠCH CỦA NHÀ BÁC HỌC ALEXANDRE YERSIN  


 

 Alexandre YERSIN (1863 - 1943)
 Hình chụp năm ông 73 tuổi - Triển lãm tại Bảo Tàng Viện Yersin ở Nha Trang

Khám phá ra vi khuẩn gây bệnh dịch hạch

Từ năm 1866, bệnh dịch hạch phát triển ở Côn Minh, thủ đô tỉnh Vân Nam; Năm sau lan đến Quảng Đông, suốt 28 năm dịch hạch tiềm tàng ở Vân Nam và Quảng Đông đe doạ Bắc Việt Nam.

Năm 1892, Yersin đã báo cho Toàn quyền De Lanessan biết cái hiểm hoạ ấy, nhưng De Lanessan trả lời: Không có bệnh dịch hạch ở Vân Nam, mà dầu có đi nữa tôi cũng nói là không. Xứ Bắc Kỳ đã khổ rất nhiều, không cần phải đem dịch hạch gán lên lưng.

Sau khi đã sát hại gần 100.000 người, dịch hạch tràn sang Hương Cảng. Bấy giờ chính phủ Pháp mới quyết định gửi một phái bộ sang nghiên cứu dịch hạch, và tìm biện pháp để ngăn không cho nó lan xuống Việt Nam. Yersin được biệt phái sang Vân Nam để tìm căn nguyên bệnh dịch hạch. Nhưng lúc bấy giờ dịch hạch đã lắng dịu ở Vân Nam mà lại đang hoành hành ở Hồng Kông. Yersin muốn xin sang Hồng Kông, nhưng Toàn quyền Chevassieux không dám cãi lệnh Paris. Sau nhờ Calmette can thiệp, chánh phủ Pháp thuận cho Yersin sang Hồng Kông.

Yersin đến Hồng Kông ngày 15.06.1894. Trước mắt ông là một Hồng Kông điêu tàn. Dân số Hồng Kông lúc bấy giờ khoảng 200.000 người, nhưng hơn phân nửa sợ lây đã bỏ chạy nơi khác. Tỷ lệ tử vong lên đến 15%.

Sir Robin Toàn quyền Hồng Kông và bác sĩ Lawson giám đốc bệnh viện Kennedy Town tiếp Yersin một cách lạnh lùng.

Tại bệnh viện Kennedy Town, Yersin chạm trán với phái đoàn y tế Nhật gồm sáu người do giáo sư Kitasato hướng dẫn. Họ đến Hồng Kông trước Yersin ba ngày. Kitasato là môn đệ của giáo sư Koch, đã sống ở Berlin bảy năm. Yersin muốn gợi chuyện với Kitasato bằng tiếng Đức, thì Kitasato giả bộ không hiểu và bật cười: "Tôi hiểu tiếng Đức chứ không hiểu thổ ngữ Thụy Sĩ".

Giáo sư Kitasato và ban trị sự bệnh viện tìm đủ mọi cách cản trở công việc của Yersin. Người Nhật được quyền sử dụng một phòng thí nghiệm tại bệnh viện, và độc quyền mổ xác bệnh nhân chết vì dịch hạch để nghiên cứu.

Yersin đành thuê thợ làm một túp lều tranh hai phòng, một để làm việc, một để ở. Ngày 22.06.1894, Yersin dọn dụng cụ vào đấy.

Yersin và lán tre phủ rơm, nơi ông tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch, Hồng Kông tháng 6 năm 1894.

Yersin thấy Kitasato tìm vi khuẩn dịch hạch trong máu thì biết là ông ấy đã sai lạc. Theo Yersin, phải tìm vi khuẩn đó trong hạch.

Không được mổ công khai thì Yersin phải mổ lén. Nhờ sự giúp đỡ của giáo sĩ Vigano, và cho tiền những thủy thủ Anh có nhiệm vụ đem các xác chết đi chôn, Yersin đã được xuống hầm chứa xác vài giờ trước khi xác được đưa ra nghĩa địa. Ông phải gạt lớp vôi phủ xác chết, tự cắt hạch từ xác chết đem về phòng thí nghiệm của mình.

 

Ảnh kính hiển vi điện tử (trái) và nhuộm huỳnh quang (phải) quét một đám vi khuẩn Yersinia pestis

Kính hiển vi cho thấy hằng hà sa số những hình ảnh đồng nhất của các vi khuẩn có hình gậy, hai đầu tròn, nhuộm Loeffler màu nhạt.

Yersin tiêm vi khuẩn vào chuột thì hai mươi bốn giờ sau chuột chết. Các thú vật thí nghiệm khác thì chết từ hai đến sáu ngày và trong tử thi đầy hạch.

Không còn nghi ngờ gì nữa. Trong khoảng thời gian bảy ngày, Yersin đã tìm ra vi khuẩn dịch hạch. Ông gửi về viện Pasteur Paris một số ống nghiệm đầy kín chất lấy ra từ hạch bịnh.

Yersin mời bác sĩ Lawson đến phòng thí nghiệm của mình trong lều tranh và chỉ cho Lawson xem các vi khuẩn tìm được. Ông cũng khiếu nại với quan thống đốc về việc ông bị cản trở không được mổ tử thi. Từ đó bệnh viện dễ dãi cho ông đôi chút.

Nhiều năm sau kéo dài một cuộc tranh luận sôi nổi, xem ai là người đầu tiên đã tìm ra vi khuẩn dịch hạch.

Mặc dầu có tài liệu công bố của viện Pasteur Paris, sách báo y học Anh ngữ vẫn cho rằng  Kitasato là người đầu tiên đã tìm ra được vi khuẩn dịch hạch, hoặc Kitasato và Yersin tìm ra vi khuẩn cùng một lúc và gọi vi khuẩn Kitasato-Yersin. Cuối cùng, năm 1975 Hội nghị Sinh vật học Thế giới lần thứ Mười đã quyết định cho vi khuẩn mang đúng tên người đã khám phá ra nó "Yersinia-Pestis".

Khi đến Hồng Kông, Yersin đã nhận thấy chuột chết rất nhiều dọc đường, và khi mổ xác chuột, ông tìm thấy hạch đầy vi khuẩn, cho thấy rằng bịnh dịch hạch do chuột truyền nhiễm. Ông đưa ra lý thuyết là vi khuẩn lây qua người do thức ăn bị chuột phóng uế, và vết loét. Chúng ta sẽ thấy rằng lý thuyết này không đúng.

Khi dịch hạch tại Hồng Kông đã lắng dịu, Yersin về Pháp để cùng Roux, Calmette, Borrel nghiên cứu thuốc chủng (vaccin) để ngừa, và huyết thanh (sérum) để trị dịch hạch. Ông đến Pháp tháng Tư năm 1895. Pasteur sức khoẻ bị suy kém nhiều nhưng cũng đến khen Yersin.

Để hết tâm trí và thời giờ vào công việc, ông từ chối không làm cha đỡ đầu cho đứa cháu trai con người anh, và ông cho mẹ ông hay lúc nào công việc tiến hành khả quan thì ông mới về Morges thăm mẹ.

Việc chế tạo huyết thanh đã hoàn thành, Yersin xin trở lại Nha Trang lập một phòng thí nghiệm và xây dựng trang trại nuôi ngựa ở Suối Dầu để chế tạo thật nhiều huyết thanh phòng khi cứu trợ bệnh nhân các nước láng giềng.

Thành lập viện Pasteur Nha Trang

      Với 5000 đồng bạc do toàn quyền Đông Dương trợ cấp, Yersin lập một phòng thí nghiệm đơn sơ tại bờ biển Nha Trang, và xây dựng tại Suối Dầu thành phố Khánh Hoà một trại nuôi trâu bò, lừa ngựa, cùng thỏ chuột, dùng cho việc thí nghiệm.
      Năm 1896, ông được chính phủ biệt phái một viên thú y nhà binh là Pesas đến săn sóc thú vật.

Quảng Châu - Áo Môn

      Mùa Xuân năm 1896, dịch hạch lại phát hiện ở Quảng Châu, Áo Môn. Yersin đem huyết thanh đến nơi và cứu được nhiều người, nhưng ông rất buồn vì trọng lượng huyết thanh rất ít, không đủ điều trị cho tất cả bệnh nhân. Tháng 9 năm 1896, ông về Paris ba tuần lễ để xin thành lập một viện Pasteur tại Trung Quốc. Kết quả không được như ý. Sau hai mươi bốn giờ về thăm mẹ, Yersin trở lại Việt Nam.

Bombay

      Trên chuyến tàu từ Marseille đến Sài Gòn, Yersin nhận được điện tín của thị trưởng thành phố Bombay yêu cầu đến giúp vì dịch hạch bắt đầu xuất hiện tại đó. Về đến Nha Trang, ông thúc đảy việc chế tạo huyết thanh cho nhanh chóng và đem bảy trăm liều sang Bombay. Đến Colombo, ông nhận được tin Pesas, người thú y cộng sự vừa từ trần. Yersin rất đau lòng vì ông cho rằng Pesas bị nhiễm trùng dịch hạch trong lúc tiêm vào thú vật.

      Tại Bombay, kết quả của huyết thanh không được rạng rỡ. Số tử vong lên đến 50%, vì bệnh nhân đến điều trị rất trễ.

      Tháng 5 năm 1897, dịch hạch dịu dần và Yersin cũng hết huyết thanh, Roux gởi Simon sang thay cho Yersin, và chính Simon đã tìm ra được nguyên nhân làm lan truyền bệnh dịch hạch, từ chuột sang người. Đó là loại bọ chét sống ký sinh ở chuột. Chúng hút máu chuột bịnh đầy vi khuẩn rồi chích qua người.

Nha Trang

      Yersin về Nha Trang chưa kịp tăng cường sản xuất huyết thanh, thì lại phải đương đầu với dịch hạch lần nữa. Làn nầy nơi ông cư trú: Xóm Cồn Nha Trang.

      Ngày 23 tháng 6 năm 1899, một số người ở xóm Cồn đã chết vì bịnh dịch hạch. Nguồn gốc của bịnh là do các thuyền buôn Trung Quốc mang mầm bệnh đã ghé Nha Trang. Yersin cho sơ tán dân xóm Cồn và tiêm huyết thanh cho họ. Nhà cửa người bệnh thì đốt đi.

      Đến tháng 2 năm 1899, khi mọi người tưởng rằng dịch hạch đã được dập thì bịnh lại tái phát. Hai làng khác gần Nha Trang buộc phải áp dụng các biện pháp tiêu thổ tiêm phòng và di chuyển dân. Đến tháng 3 năm 1899, bệnh dịch hạch ở Nha Trang và xóm Cồn mới được dập tắt. Yersin băn khuăn cảm thấy như mình có lỗi trong những thiệt hại trên, đối với những người mà ông coi như ruột thịt của mình.

Yersin người đầu tiên đã đem khoa thú y vào Việt Nam

      Đông Dương là một vùng đất lấy nông nghiệp làm cơ bản. Trâu bò là sức kéo chủ yếu. Nếu trâu bò bị bệnh thì đời sống kinh tế của nông thôn bị đe doạ. Yersin thấy việc phòng chống dịch cho trâu bò hết sức quan trọng. Ông là người đi đầu trong công việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề về dịch tễ của trâu bò và đặt nền móng cho công tác thú y ở Việt Nam.

      Năm 1904, Yersin, sau một thời gian thí nghiệm đã khẳng định ở Đông Dương có cả hai bệnh: nhiệt thán dịch tả trâu bò, và tụ huyết trùng trâu bò, trái hẳn với thuyết của các thú y trước cho rằng ở Đông Dương không có nhiệt thán dịch tả trâu bò.

      Yersin đào tạo một số cán bộ thú y cho toàn Đông Dương về phương diện bệnh lý và vệ sinh tiêm chủng. Các bác sĩ thú y người Pháp đến Đông Dương đều phải trải qua một đợt thực tập ba tháng tại viện Pasteur Nha Trang.

      Nhờ sự đóng góp rất lớn của Yersin trong khoa học thú y mà ngành chăn nuôi Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đã vững bước tiến lên, và những thú y Việt Nam đã quen coi viện Pasteur Nha Trang là từ đường của nghề nghiệp. Từ năm 1899, viện Pasteur Nha Trang dần dần nghiên cứu sản xuất huyết thanh trị bệnh dịch tả trâu bò cùng các bệnh gia súc, kể cả thuốc thú y; còn thuốc dùng cho con người, họ nhường cho viện Pasteur Sài Gòn.

Nhập chủng thảo mộc

      Nơi nông trại Suối Dầu, lúc đầu Yersin trồng ngũ cốc để nuôi nhân công và súc vật. Khi việc sản xuất thuốc chủng (vaccin) và huyết thanh (sérum) bắt đầu ổn định, ông nghĩ ngay đến việc tìm một vài loại cây trồng để cung cấp một phần kinh phí cho hoạt động của viện Pasteur Nha Trang, vì Viện là một tổ chức tư nhân, không phải của nhà nước thuộc địa.

  1. Phát triển cây cao su (hévéa brasiliensis)

      Nhận thấy cao su trong tương lai sẽ đem lại một nguồn lợi lớn, năm 1897, Yersin với sự giúp đỡ của Vernet kỹ sư canh nông bắt đầu cho trồng cây cao su tại Suối Dầu năm 1909. Diện tích trồng cao su tại Suối Dầu lên đến 100 mẫu, lợi tức hàng năm một tấn rưỡi nhựa trị giá 15000 francs.

      Từ 1930 đến 1940, mỗi năm Suối Dầu sản xuất một trăm tấn nhựa khô. So với số lượng sản xuất của toàn miền Nam 100 000 tấn, con số nói trên không đáng kể, nhưng giúp viện Pasteur Nha Trang cân bằng ngân sách và khỏi phải xin trợ cấp.

  1. Nhập chủng cây quinquina

      Trận đại chiến thế giới lần thứ nhất làm Việt Nam thiếu hụt thuốc Kí-ninh (quinine). Yersin nhập chủng cây quinquina về trồng tại Hòn Bà, nhưng kết quả không được tốt. Năm 1923 cây này được đem trồng ở Dran Djiring và Diom, trên cao nguyên Lang Bian. Nhờ sự trợ giúp của Lambert, nhà hoá lý học, năm 1937-1938, diện tích trồng cây quinquina lên đến 671 mẫu. Nhân công đã bóc được 41.500 ki-lô vỏ, chế tạo được 3.227 ki-lô sulfate de quinine.

Yersin giám đốc trường y khoa Hà Nội

      Đương say sưa với công việc ở viện Pasteur Nha Trang thì bất thình lình năm 1902 Yersin được toàn quyền Đông Dương Paul Doumer mời ra Hà Nội nhậm chức hiệu trưởng trường Y Khoa.

      Việc xây dựng một trường Đại Học Y Khoa tại Đông Dương đã được nghĩ tới nhiều năm trước, và Hà Nội được chọn. Đối với giới cầm quyền Đông Dương thời đó, trường y khoa Hà Nội không chỉ là nơi đào tạo các thầy thuốc bản xứ, mà còn là một trung tâm văn hoá, khoa học, nhằm phát huy ảnh hưởng của nền văn minh tây phương, đặc biệt là của Pháp.

      Các vấn đề tổ chức chung và nhân sự được trao đổi với Brouardel, hiệu trưởng trường Đại Học Y Khoa Paris. Theo yêu cầu của bộ trưởng thuộc địa Decrais, một hiệu trưởng không được quá trẻ và phải đủ tư cách cùng uy tín để hoàn thành nhiệm vụ một cách đẹp đẽ. Thế là nhà bác học nổi tiếng Alexandre Yersin được chọn làm hiệu trưởng đầu tiên của trường Y Khoa Hà Nội.

      Khoá đầu tiên có 29 sinh viên được trúng tuyển: Bắc Kỳ 15 người, Trung Kỳ 5 người, Nam Kỳ 8 người, Cao Miên 1 người.

      Là nhà mô phạm và thích huấn luyện chuyên viên, A. Yersin ngoài chức hiệu trưởng, lãnh thêm nhiệm vụ giảng dạy các môn lý, hoá, cơ thể học.

      Nhưng khi Paul Doumer rời Đông Dương, toàn quyền Paul Beau muốn hạ thấp trình độ giảng dạy thì Yersin buột miệng kêu lên: "Chánh phủ Pháp muốn đào tạo y tá thay vì đào tạo thầy thuốc!" Rồi ông xin từ chức hiệu trưởng trường y khoa Hà Nội, trở về Nha Trang.

VĂN BÁ (Paris)

Tượng Alexandre Yersin trên vịnh Nha Trang.


CHIA SẺ BÀI VIẾT

Bài cùng chủ đề

Bài về chủ bút

    Tinh hoa nhân loại

      Khoa học

        Văn học

          SÁCH CỦA TÔI