Sự tích đền Cờn
Ký sự của Hà Hoàng Kiệm
(Bài viết này càng về sau càng thú vị, các bạn gắng đọc hết nhé).
Ảnh Đền Cờn trong
Nghe đồn đền Cờn là ngôi đền linh thiêng nhất xứ Nghệ, đứng đầu trong bốn đền nổi tiếng ở Nghệ An, hàng năm khách thập phương trên khắp nước Việt Nam đổ về đây thắp hương, chúng tôi quyết định làm một chuyến hành hương tới nơi linh thiêng này, trước để thắp hương sau là thỏa trí tò mò.
Đền Cờn ở thị xã Hoàng Mai (trước đây thuộc huyện Quỳnh Lưu) tỉnh Ngệ An cách Hà Nội 230 km về phía nam, cách thành phố Vinh Nghệ An 75km về phía bắc. Thị xã Hoàng Mai tỉnh Ngệ An được thành lập tháng 4.2013 từ thị trấn Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu, có đường quốc lộ 1 chạy qua, có con sông Hoàng Mai uốn lượn và có bãi tắm Quỳnh Phương thơ mộng.
Đền Cờn là tên gọi chung cho cả hai ngôi đền là đền Cờn trong và đền Cờn ngoài, là ngôi đền linh thiêng nhất Nghệ An, đứng đầu 4 đền nổi tiếng (nhất Cờn, nhì quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng) không chỉ linh thiêng mà còn có cảnh quan xinh đẹp, mang đậm dấu vết lịch sử và có một sự tích kỳ bí. Đứng sau đền Cờn là đền Quả ở Bạch Ngọc (Đô Lương) thờ Lý Nhật Quang; đền Bạch Mã ở Võ Liệt (Thanh Chương) thờ Phan Đà, một võ tướng thiếu niên của Lê Lợi; rồi đến đền Chiêu Trưng Vương Lê Khôi, trước ở Cửa Sót (Thạch Hà, Hà Tĩnh) sau ở xã Nghĩa Liệt, dưới chân núi Lam Thành (Hưng Nguyên), nơi đã từng là trấn lỵ của trấn Nghệ An trong nhiều đời và qua nhiều thế kỷ.
Lịch sử
Ảnh Đền Cờn ngoài, chụp 5.11.2016
Theo sử sách, ngôi đền được xây dựng vào năm 1235 đời nhà Trần, lúc đầu làm bằng tranh tre nứa lá nhỏ bé. Đền được dựng lên để thờ tứ vị thánh nương là 3 mẹ con công chúa nước Nam Tống là: Từ Hy Thái hậu Dương Nguyệt Quả, 2 công chúa là Triệu Nguyệt Khiêu và Triệu Nguyệt Hương và bà nhũ mẫu. Đền còn thờ cả các vị thần là vua Tống Đế Bính, các quan Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu… Đền còn thờ một khúc gỗ thiêng và vỏ hạt lúa.
Từ năm 1312, ngay sau năm Hoàng đế Trần Anh Tông, thân làm tướng đem quân Nam chinh đánh thắng Chiêm Thành. Khi trở về Trần Anh Tông sắc phong lập đền Cần Hải, tên Nôm ngày xưa là Càn, đến đời Lê - Trịnh, vì phạm húy, đổi là Cờn. Từ đó gọi tên cửa sông là cửa Cờn.
Đến thời vua Lê Thánh tông, 1472, đền tiếp tục được xây dựng thêm 2 tòa khiến di tích trở nên uy nghi soi bóng bên bờ Mai Giang.
Theo thư tịch cổ thì sang thời Lê, 1472 theo chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông, dân làng Phương Cần dựng thêm một ngôi đền nữa gọi là đền Cờn ngoài bên bở biển, cách đền Cờn trong khoảng 1km. Đền thờ các vị thần như: Đế Bính, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu... Các vị thần này trước phối thờ ở đền Cờn trong, song do quan niệm Nho giáo “nam nữ bất đồng cung” nên đến thời Lê đền thờ được xây riêng.
Đền Cờn ngoài được tôn tạo quy mô với 3 tòa trên ngọn núi Thằn Lằn, ngay sát cửa biển, phong cảnh vừa cổ kính, phóng khoáng và thơ mộng.
Đền Trong
Ảnh Đền Cờn trong
Cửa Cờn có những hòn đảo xa xa, có đảo gần bờ mà nay là rú Ói, tức Quy Lĩnh sơn, có sông Mai Giang uốn lượn, có vụng Ngâm nối liền với vụng Sao Sa, có núi Hùng Vương (núi Thằn Lằn), núi Quạ và bên sông Mai Giang là dãy núi Xước với những ngọn điệp trùng đã từng là một quân cảng hiểm trở vào đời Lý, Trần, Lê. Đất trời đã ban cho Quỳnh Phương một mảnh non sông có biển, có sông, có cảng biển, có núi đồi, vũng nước,... và đã được điểm xuyết bằng những đền, đình miếu, chùa, nổi tiếng nhất là đền Cờn.
Đền Cờn được dựng trên khu đất cao gọi là gò Diệc (hay cồn Diệc). Trước mặt đền là sông Mai (còn gọi là sông Hoàng Mai hay Mai Giang) uốn khúc thông ra cửa biển lớn nhất của Quỳnh Lưu. Đền có kiến trúc cổ kính và nằm trên mảnh đất có phong thủy đẹp. Phía trước nhìn ra sông Mai Giang, phía sau có hai đồi nhỏ nhô cao, giăng dài ra hai bên như cánh phượng. Tại hai đồi có hai giếng nước, tương truyền đây là mắt phượng. Bên kia dòng sông Mai Giang phía trước đền có núi Voi, núi Xước và sau lưng đền là biển. Đền Cờn Trong được xây dựng vào thời Trần (1235), phát triển quy mô lớn ở thời Lê, trùng tu nhiều ở thời Nguyễn, bởi vậy, di tích mang đậm phong cách văn hóa cuối Lê đầu Nguyễn.
Năm Giáp Thân (1044) vua Lý Thái Tông thân chinh dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành cũng dừng thuyền ở cửa Cờn để tuyển thêm tráng sĩ, nên mới có Đặng Tế ra phò, đánh giặc có công được thờ ở đền Xuân Úc (Quỳnh Liên).
Thời gian Lê Lợi kéo quân Lam Sơn vào Nghệ An (1424) và Ninh quận công Trịnh Toàn (trong những năm Trịnh - Nguyễn phân tranh) khi đã làm Tiết chế kéo quân vào Nghệ An để chống chọi với chúa Hiền cũng đã vào đền Cờn cầu nguyện.
Năm Hồng Đức 11 (1470), vua Lê Thánh Tông lại huy động thủy quân tiến đánh Chiêm Thành, khi đoàn chiến thuyền dừng lại nghỉ ngơi ở cửa Cờn, vua vào đền mật đảo. Sau chiến thắng, đoàn thuyền của vua đi về qua cửa Cờn nhưng lại phải quay lại và vào cửa Cờn (ngay dưới chân đền) để tránh bão. Ngẫm sự kiện này, vua cho là điềm lạ, có lẽ thần đền đòi tri ân chăng, bèn hạ lệnh tăng thêm phẩm vật, cho khắc tượng và dựng thêm một tòa đền. Đêm đó nhà vua mộng thấy Tứ Vị Thánh Nương, bèn Gia phong sắc “Đại Càn Thánh Nương Quốc gia Nam Hải Tứ vị thượng đẳng thần”. Về sau chỗ thuyền quay lại được gọi là Hồi Chân hay Đồng Hồi, tức xã Quỳnh Lập ngày nay (việc này đã được chép lại trong Đại Nam nhất thống chí).
Sang thế kỷ 18, vua Quang Trung đã ban sắc phong với mỹ tự “Hàm hoằng quảng đại” (tức là công lao rộng khắp, to lớn) và “Hàm chương tiết liệt”(nghĩa là nêu gương tiết liệt cho muôn đời).
Đền được dựng trên một cồn cao bên bờ sông Mai uốn khúc. Đối diện với đền về phía tây là dãy núi Voi như bức tường thành thiên tạo hùng vĩ. Núi Xước nhấp nhô ở phía tây bắc như dáng con rồng đang cuốn nước về biển khơi. Sông Mai phân thủy đôi dòng, uốn lượn trước cửa đền rồi mới xuôi về biển. Vì thế, văn phú làng Phương Cần có câu:
Núi chầu qua, dù dương lớp lớp, nghìn non trở lại tiền đường
Sông kéo đến, khúc uốn quanh co, muôn nước thu về một nẻo
Theo lối nhìn phong thủy, đền Cờn dựng trên thế đầu chim Phượng hoàng, cánh phượng là các bãi de (sác) trước đây, còn hai mắt phượng là các giếng Đò và giếng Đình:
Bến Giang kia, cánh phượng bãi de, chàm nhuộm màu xanh eo éo
Đò dọc ngang mấy chiếc, vẫy chèo loan đưa rước người tiên...
Trước đây trong đền còn thờ hai vật thiêng là khúc gỗ và vỏ hạt lúa. Hai linh vật này là biểu tượng của cư dân làm nghề đánh cá và nghề nông.
Đền Ngoài
Ảnh Đền Cờn ngoài
Đền Cờn ngoài cách đền Cờn trong khoảng 1km, tọa lạc trên dãy núi Thằn lằn (còn gọi là núi Hùng Vương). Đền thờ các vị thần như: Tống Đế Bính, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu... Các vị thần này trước phối thờ ở đền Cờn trong. Theo lời truyền khẩu trong dân gian Phương Cần, sự ra đời của ngôi đền liên quan đến “giấc mộng của vua Hồng Đức”. Tương truyền, năm Hồng Đức thứ 11 (1470), Lê Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm thắng trận trở về. Thuyền đến cửa Biện (Thanh Hóa), bỗng gió đông thổi mạnh, phải quay lại cửa Cờn. Nhà vua vào làm lễ tạ thần đền, thấy Đế Bính được thờ chung với các bà, cho rằng theo Nho giáo “nam nữ bất đồng cung”, sai dựng đền Ngoài để thờ Tống Đế Bính và các trung thần Trương Thế Kiệt và Lục Tú Phu.
Đền Ngoài nằm trên dải núi Thằn Lằn ngay tại nơi cao nhất của dải núi. Theo trí tưởng tượng của dân gian trong vùng, vị trí của đền là đầu của một con thằn lằn, phần thân của nó nằm vắt từ phía đông sang phía bắc làng, ngay sát mép biển. Đây là một giải núi thấp, dài gần 1km với độ cao trên 100m so với mực nước biển. Nơi đây biển mênh mông sóng vỗ hòa quyện với mây trời, cảnh quan thiên nhiên lay động lòng người, khiến danh hào Nguyễn Du khi đến viếng đền đã khắc họa thành thơ:
Mặt nước mênh mông bể lẫn trời
Ngôi đền thấp thoáng bãi ngoài khơi
Bến phú chiều tà cây man mác
Cửa bể thu dần khói tả tơi...
Đền Ngoài được xây dựng vào khoảng thế kỷ 14 (sau đền Trong), được tôn tạo và hoàn chỉnh dưới thời Tự Đức (1848-1883), cùng một lúc với việc tu bổ đền Trong. Đền Ngoài đã bị dân làng và chính quyền sở tại phá hủy vào năm 1979, tức là một năm sau cuộc đụng độ ở biên giới Việt Trung. Bấy giờ, người ta quan niệm: “Thờ thần Tàu đau lòng liệt sĩ”, mặc dù xét về phương diện lịch sử, vị thần được thờ trong đền không liên quan gì tới những mâu thuẫn chính trị thời đó. Cho đến những năm 80 của thế kỷ này, cũng vẫn là những người dân Phương Cần đã đứng ra hưng công tu sửa đền.
Ngôi đền hiện nay có kết cấu mặt bằng hình chữ đinh, gồm ba gian nhỏ và một hậu cung thờ nhô ra ở phía sau. Mái đền thấp, lòng đền hẹp, trang trí nội thất rất sơ sài; rất may nhà đền còn lưu giữ được một hệ thống tượng đá khá phong phú bao gồm một đôi rồng đá chạy bám theo thành bậc tam cấp phía trong nghi môn, hai tượng quan hậu (có thể là hai ông quản voi), hai con nghê đá, hai tượng Chăm (tượng phỗng quỳ dâng rượu), hai tượng hổ đá, một đôi voi đá nằm chầu ngay sau nghi môn và một vài cột đá để cắm tàn, lọng và cờ.
Theo lời kể của người dân Phương Cần, một số hiện vật ở đền Ngoài đã bị mất mát, một số khác được đưa vào đền Trong cất giữ. Những dấu tích còn lại của ngôi đền như chân cột nanh, các bậc tam cấp, mặt bằng nền móng, cho thấy quy mô kiến trúc cũ của ngôi đền vẫn còn lưu lại
Sự tích cây gỗ thiêng
Ảnh Tứ vị Thánh nương trong đền Cờn được tạc từ cây gỗ thiêng
Khúc gỗ thiêng trước đây được thờ trong đền Cờn trược truyền lại như sau: cây gỗ từ ngoài biển trôi vào, trôi gần đến đá Ông Cộc, gặp triều nước rặc, cây gỗ phải luẩn quẩn ở đấy. Khi nước cường, cây gỗ mới trôi vào cửa Cờn rồi qua cửa Cờn vào sông Mai Giang đến giếng Giá, trước cửa đền làng Hữu Lập bây giờ. Vào đến đây, gặp tuần nước sinh, cũng phải loanh quanh ở vùng giếng Giá mấy ngày rồi mới trôi đến vùng Hói Vua mà nay là xóm Trại của làng Phương Cần. Và cũng như ở đá Ông Cộc, ở giếng Giá, cây gỗ lại gặp tuần nước rặc, bị mắc cạn, phải chờ đến ngày nước cường, cây gỗ mới trôi đến trước cửa đền Cờn.
Trước cửa đền Cờn phong cảnh đẹp đẽ hữu tình. Những con người ở Kẻ Cờn đang say với biển cả, bận bịu với cảnh kiếm sống hàng ngày, hờ hững với cây gỗ nằm ở đó. Gặp tuần triều cường, cây gỗ lại tiếp tục trôi đi, trôi đến đập Chiêm thuộc đất xã Quỳnh Dị bây giờ, cây gỗ nằm lại. Cũng chẳng ai đoái hoài. Nào ngờ trong làng Phương Cần xẩy ra nhiều chuyện chẳng lành, nào gia súc gia cầm chết hàng loạt, nhiều người ốm đau, giương thuyền ra biển không đánh được cá,... Đi bói, thầy bói nói là do cây gỗ. Đang tuần nước cường, hào lý sai tuần phu dùng cây sào đẩy cây gỗ ra sông Mai Giang. Cây gỗ trôi xuống Hói Vua, qua giếng Giá, qua cửa Cờn, qua đá Ông Cộc, trôi xuống hòn Ói, tức núi Quang Lĩnh ở Phú Lương rồi nằm lại đó.
Một người dân Phú Lương thấy cây gỗ, cầm cái xiên xọc vào một cách vô tình, bỗng mùi thơm tỏa ra. Cho là gỗ thần, anh cầu xin cho mình ra khơi đánh được nhiều cá. Quả như vậy, cả làng Phú Lương làm như vậy, đời sống dân Phú Lương khá hẳn lên. Biết tin đó, dân Phương Cần ân hận lắm.Vào một đêm tối trời, hào lý đưa trai tráng trong làng xuống cướp lại. Dân Phú Lương thế yếu, họ kiện lên quan trên, kiện lên mãi triều đình. Nhà vua phải dùng một phép tâm linh để xử kiện, song Phú Lương vẫn thua.
Cây gỗ thiêng được cho là linh hồn của tứ vị thánh nương nhập vào. Được gỗ, dân Phương Cần xẻ ra, một phần tạc tượng Tứ Vị Thánh Nương, phần còn lại để làm đồ tế khí, làm đền. Gỗ thần vừa xẻ, một mùi thơm của hoa lan hoa quế thoang thoảng toát ra, dân làng cho đó là thiên hương. Cần nhớ thêm rằng, xác Tứ Vị Thánh Nương chết đuối ngoài biển cả, sóng đánh trôi dạt vào vụng Ngâm ở Phương Cần, bao ngày không rõ, dân làng biết vẫn thấy như mới qua đời và cũng toát ra một mùi thơm kỳ lạ, họ cũng cho đó là thiên hương và đã là thiên hương thì bất diệt.
Sự tích đền Cờn
Ảnh Đền Cờn nằm bên bờ sông Mai (nguồn:internet)
Năm Thiệu Bảo thứ nhất (1235), quân Nguyên đánh úp quân Tống (Trung Quốc). Thế giặc như nước, đi đến đâu cũng như vào chỗ không người, chẳng bao lâu chúng đã chiếm lấy kinh thành và tràn về phương Nam. Trong cơn nguy cấp, trung thần Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu… đưa vua, hoàng hậu, gia quyến cùng binh sĩ hơn 800 người lên thuyền ra biển chạy trốn. Không ngờ, đoàn thuyền đi được ba ngày thì một trận bão nổi lên đánh đắm tất cả. Những người trên thuyền đều không tránh khỏi tai nạn, trong đó có Đế Bính. Chỉ còn hoàng hậu và hai cô công chúa bám được vào được một mảnh ván, phó mặc cho sóng giạt nước trôi.
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép về sự kiện này như sau “Các Thánh nương là ba mẹ con Công chúa nước Nam Tống là Thái hậu Dương Nguyệt Quả, hai Công chúa Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương và bà nhũ mẫu. Năm Thiệu Bảo thứ nhất (1229), quân Nguyên đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu, trung thần nhà Nam Tống đưa vua Đế Bính, gia quyến cùng binh sỹ hơn 800 người lên thuyền ra biển chạy trốn, bị quân Nguyên truy sát gấp rút lại gặp sóng to gió lớn, vua tôi Nam Tống chết chìm ở biển Đông”.
Hồi ấy, ở vùng cửa Cờn xứ Nghệ có một ngôi chùa cổ dựng trên một hòn đảo gần bờ gọi là rú Ói. Vị sư trụ trì ở đây là người quyết chí tu hành, ông tìm đến hòn đảo hẻo lánh này để rũ sạch bụi trần, bạn cùng kinh kệ. Hôm ấy trời về chiều, nhà sư đang đi tản bộ quanh chùa, miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay lần tràng hạt. Thốt nhiên khi nhìn ra ngoài khơi, ông trông thấy thấp thoáng có một vật gì bập bềnh trên mặt sóng, bèn nghĩ: Có thể là người đi biển bị nạn. Sau trận bão vừa qua có biết bao nhiêu là ván và đồ đạc trôi vào bờ. Ta phải chèo thuyền ra xem, cứu được một mạng người còn hơn xây bảy tòa tháp.
Nghĩ vậy, nhà sư vội vàng xuống bãi, cởi dây buộc thuyền rồi chèo ra khơi. Chỉ một lát sau, ông đã đến gần ba người phụ nữ đang lênh đênh cầu cứu. Lập tức, nhà sư đỡ từng người một lên thuyền của mình. Khi thuyền chèo về đến đảo, một mình ông lần lượt vực từng người lên chùa rồi đốt lửa cho họ sưởi, lại nấu cháo cạy miệng đổ vào.
Được chữa chạy tận tình của nhà sư, khoảng độ canh năm, cả ba người dần dần tỉnh lại. Nhà sư tiếp tục chăm sóc chu đáo. Đến sáng hôm sau, cả ba người đều đã ngồi dậy được. Họ cho biết mình là ba mẹ con, đi thuyền không may bị bão. Khi biết rõ ai là ân nhân của mình, ba người đàn bà rạp xuống quỳ lạy tỏ ý cảm ơn. Nhà sư vui vẻ nhường cho họ chỗ nằm trong tăng phòng, rồi lui ra ngoài nghỉ cho lại sức.
Ba ngày sau, sư trụ trì vẫn hết lòng chăm sóc ba người bị nạn. Có bao nhiêu lộc chùa, sư đều lấy ra khoản đãi. Sư còn chèo thuyền vào đất liền để tìm những thức ăn mà nhà chùa không có. Mười lăm ngày trôi qua, sức khỏe của họ đã trở lại bình thường.
Nhưng về phía nhà sư, lòng ông không còn bình thản như trước. Chưa bao giờ sư được nhìn thấy những người đàn bà mày ngài mắt phượng xinh đẹp đến thế, lại đã từng được gần gũi nên sư đâm ra thẫn thờ. Đã nhiều lần sư đọc kinh cầu nguyện suốt buổi, cố tránh sự cám dỗ, nhưng công trình hơn ba mươi năm tu luyện cũng không thể kìm giữ được lòng ham muốn. Vì vậy, việc trả họ vào đất liền để trao cho quan sở tại là việc dễ làm nhưng sư vẫn dùng dằng không quyết. Giữa một ngôi chùa trơ trọi, xung quanh là trời với nước, bên cạnh lại có ba người đàn bà yếu đuối và cô đơn, sư cho đó là một cơ hội hiếm có.
Rồi một đêm kia, nhân lúc hai cô gái ngủ say, sư bèn đến bên cạnh người thiếu phụ… Nhưng người đàn bà đã nghiêm nét mặt lại: Ôi! Sao lạ thế? Ông là người cứu sống mẹ con chúng tôi, mẹ con chúng tôi suốt đời không quên công ơn to lớn đó. Nhưng còn việc đồi bại thì đừng có hòng! Tôi là gái có chồng và cũng biết nhân luân đạo lý. Còn ông là một kẻ ăn chay niệm Phật, lẽ nào nói đến chuyện sắc dục mà không thẹn miệng.
Nghe lời nói phải, nhà sư lủi thủi đi ra. Nhưng đến khuya, sư lại mò vào, tay cầm một con dao nhọn: “Nếu nàng không chịu, ta sẽ giết chết cả ba mẹ con rồi vứt xác xuống biển.” Lời dọa của sư vẫn không làm cho người thiếu phụ sợ hãi. Nàng đánh thức hai con gái dậy và nói to: “Nếu ông cứ cố tình phạm vào người mẹ con chúng tôi thì sẽ phải hối hận. Mẹ con chúng tôi thà chết chứ không chịu nhục!”
Thấy ba người đàn bà quyết tâm kháng cự và toan đập đầu vào cột chùa, nhà sư đâm ra hối hận. Sư bèn ngăn họ lại rồi nói: Đừng làm thế! Đừng làm thế! Chính ta mới là kẻ đáng chết. Chao ôi! Ta có ba tội đáng chết. Đi tu mà chẳng trót đời, đó là một. Ép nài người đàn bà sa cơ lỡ vận, đó là hai. Ép nài không được lại toan hành hung, đó là ba. Ôi! Ba tội như thế, ta đáng chết lắm!
Nói đoạn, sư cầm ngược lưỡi dao đâm thẳng lên cổ chết ngay. Trước cái chết đột ngột của ân nhân, người đàn bà vô cùng hối hận. Bà gục xuống bên cái thây ma mà than khóc: “Ôi! Ta nhờ có ông mà sống. Thế mà ông lại vì ta mà chết. Vậy ta còn mặt mũi nào mà sống lấy một mình nữa.” Trong cơn xúc động đến cực điểm, bà liền chạy ra khỏi chùa rồi nhảy xuống biển tự vẫn. Thấy mẹ chết, hai cô con gái than khóc rất thảm thiết rồi cũng nhảy xuống biển chết theo.
Mấy ngày sau, những người dân chài ở cửa Cờn vớt được xác ba người đàn bà. Nhìn kiểu ăn mặc và nhờ những tin tức nhận được, các quan chức cũng đoán ra đó là ba mẹ con hoàng hậu Đế Bính. Cũng vào lúc ấy, những người dân địa phương còn tìm thấy xác sư ông tự tử trong ngôi chùa trên đảo. Quan sở tại sau khi mở cuộc điều tra, dần dần cũng vén được tấm màn bí mật bao phủ lấy câu chuyện éo le trong ngôi chùa cổ.
Để kỷ niệm những người đàn bà tiết liệt, dân chúng đã tạc tượng ba mẹ con, lập đền thờ gọi là đền Cờn.
Sự tích tục "chạy Ói" Đền Cờn
Lễ hội đền Cờn hàng năm được tổ chức quy mô, hoành tráng. Đặc biệt đám rước kiệu vốn được coi là linh hồn của lễ hội xưa, ngày nay tuy có rút ngắn thời gian nhưng vẫn giữ được nét riêng độc đáo của nó với tục "chạy Ói". Tuy nhiên, không phải ai cũng biết rằng, tục "chạy Ói" trong lễ hội đền Cờn lại gắn liền với lễ hội đền Quy Lĩnh và cho đến nay vẫn chưa được khôi phục lại nguyên vẹn đúng với tinh thần của nó.
Đền Quy Lĩnh (xã Quỳnh Lương, Quỳnh Lưu) và Đền Cờn gắn kết với nhau từ lịch sử đến huyền thoại. Có rất nhiều truyền thuyết về sự tích của 2 ngôi đền này.
Truyền thuyết được mọi người biết tới nhiều nhất là: Năm Thiệu Bảo thứ nhất (1235), quân Nguyên đánh úp quân Tống, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu là trung thần nhà Nam Tống, đem Vua Đế Bính, gia quyến cùng binh sĩ hơn 800 người lên thuyền ra biển chạy trốn, quân Nguyên truy sát gấp rút lại gặp sóng to gió lớn, vua tôi Nam Tống chết chìm ở biển Đông. Chỉ còn hoàng hậu và hai người con gái bám vào được một mảnh ván gỗ, để mặc cho nước trôi sóng dạt. May mắn cho mẹ con hoàng hậu khi được vị sư chùa núi Cốc cứu vớt và cho nương nhờ. Thời gian sống chung trong chùa khiến nhà sư động lòng trần với hoàng hậu một thời của Nam Tống, nhưng đã bị hoàng hậu cự tuyệt. Cảm thấy đau lòng và xấu hổ, nhà sư lấy dao đâm vào cổ tự tử. Trước sự cố này, hoàng hậu nghĩ rằng mình là nguyên nhân cái chết của ân nhân nên cũng lao mình xuống biển. Hai người con gái cũng trẫm mình theo... Thi thể 3 mẹ con hoàng hậu trôi dạt vào cửa Càn. Dân làng Càn thấy thi thể những phụ nữ chết đuối, nhưng mặt mũi hồng tươi, xiêm y quý tộc, đặc biệt tỏa ra một mùi thơm như lan, như quế lấy làm kỳ lạ. Nhìn kiểu ăn mặc và nhờ những tin tức nhận được, các quan chức cũng đoán ra đó là ba mẹ con bà hoàng hậu Đế Bính. Dân chúng đã tạc tượng ba mẹ con, lập đền thờ trên Gò Diệc (cồn Càn) gọi là đền Cờn.
Còn về vị sư chùa núi Cốc đã cứu vớt và cưu mang mẹ con Hoàng hậu, đã được nhân dân Phú Lương (Quỳnh Lương) dựng đền thờ đặt tên là đền Quy Lĩnh, phía sau là rú Ói, trước mặt là biển.
Hai ngôi đền còn gắn liền với hai sự kiện vua Trần Anh Tông và về sau là vua Lê Thánh Tông trong lần chinh Nam đã ghé vào cầu đảo, nhờ được thần linh trong đền phù hộ mà giành thắng lợi lớn trở về.
Mỗi lần khi xuất hành ra khơi, người dân đến đền Cờn cầu khấn đều thấy linh nghiệm. Sau này, dân làng Càn vì muốn đền Cờn càng linh thiêng hơn nữa, nên đã đến hòn Ói, tìm cách lấy bát hương thờ nhà sư ở đền Quy Lĩnh về thờ chung với mẹ con hoàng hậu để "ông về với bà" và cũng là để cảm tạ ơn cứu mạng ngày xưa của nhà sư. Thế nhưng nhân dân Phú Lương không cho và kiên quyết giữ ông ở lại. Chính vì ông bà ở hai nơi như thế nên hàng năm mới có tục "chạy Ói" tức là từ đền Cờn, chạy vào hòn Ói, nơi có đền Quy Lĩnh để rước ông về.
Theo ông Trương Đắc Thành (Phó GĐ Bảo tàng Nghệ An), người đã có nhiều nghiên cứu về hai ngôi đền thì tục "Chạy ói" (lễ hội chính thức của đền Cờn) ngày xưa được tổ chức từ ngày 15 đến 21 tháng giêng. Đoàn rước cả bằng đường bộ lẫn đường thủy đến trước đền Quy Lĩnh thì 2 bên "giả vờ" xô xát, tranh giành nhau, một bên cố giữ lại bát hương (lễ khất lưu), còn một bên thì làm lễ xin rước đi. Sau đó, nhân dân Phú Lương sẽ nhường để dân Phương Cần đưa ông về với bà. Ông sẽ ở lại ngoài đền Cờn ít ngày, sau đó ông sẽ ... tự quay lại về đền Quy Lĩnh. Và năm sau, lại tiếp tục như thế, người dân làng Phương Cần lại dùng thuyền, kiệu, chạy đền rú Ói, để đi rước ông về.
Một cảnh trong tục chạy Ói (ảnh: internet)
Trong những ngày từ 15 đến 19 tháng giêng sẽ là những công việc chuẩn bị. Đêm ngày 20, dân đinh và trai tráng các xóm nhộn nhịp chuẩn bị ở khu đền chính, dân chúng náo nức đứng chật đường làng để xem đám rước kiệu. Khoảng 3 giờ sáng ngày 21, hàng trăm dân đinh của 4 giáp nhất loạt khiêng vác bốn ngai và tàn vàng chạy xuống đền Ói, vừa chạy vừa hò một vài câu ca cổ, sau mỗi câu lại hô vang "Dô phe, trời!" rồi thúc nhau chạy tiếp đến nơi tập kết. Mờ sáng ngày 21, từ đền Trong các giáp tổ chức đám rước 4 kiệu thần xuống đón ngai và tàn, đi theo hàng lối đã bốc thăm từ trước. Đi đầu đám rước là cờ quạt, nghi trượng, kiệu, hương án rồi đến 4 trống, 4 chiêng và phường bát âm. Tiếp theo là lần lượt các kiệu: kiệu Thánh Mẫu đi đầu, tiếp theo là kiệu vua Đế Bính rồi mới đến kiệu của hai con gái của Mẫu. Đi sau là các vị chức sắc, các vị bô lão, dân làng và du khách, v.v...
Hai đám rước, một từ đền Cờn đi xuống và một từ đền Ói đi lên, cùng gặp nhau ở Cửa Ngâm thì hòa làm một, ngai được đưa lên kiệu theo đúng thần vị. Sau đó các phe, giáp tổ chức ăn cỗ ngay tại bãi rộng ở Cửa Ngâm, cỗ bàn được chuẩn bị chu đáo, đầy đủ theo lễ bộ. Ăn xong còn tổ chức các trò diễn dân gian như hát vè kiệu, hát trình nghề, diễn các trò liên quan đến nghề chài lưới. Đến chiều, các giáp tổ chức rước kiệu về làng theo thứ tự như lúc đi xuống. Lúc này đám rước có phần lộng lẫy hơn bởi có đầy đủ 4 kiệu, 4 ngai, 8 tàn vàng, 16 quạt, 16 tàn nỉ, các đồ khí tự, v.v... Đám rước về đền chính, tổ chức tế lễ, rước ngai yên vị như cũ, kết thúc lễ hội.
Có thể nói trong tục "chạy Ói" của Lễ hội Đền Cờn xưa gắn liền mật thiết với lễ hội đền Quy Lĩnh, mọi hoạt động đều mang tính linh thiêng, được tổ chức hết sức chặt chẽ, thu hút rất đông người tham gia, tạo được sức cố kết cộng đồng cao với các làng xã khác.
Đến nay, tục "chạy Ói" vẫn còn vì đó là phần lễ chính, không thể thiếu trong lễ hội Đền Cờn nhưng nó chưa được khôi phục lại nguyên vẹn đúng tinh thần xưa. Đền Quy Lĩnh đến năm 1979 đã trở thành phế tích. Không còn ngôi đền ở hòn Ói nữa, thì đám rước ở Quỳnh Phương vào sẽ rước ai?! Cũng như việc "giả vờ" xô xát nhau, một bên làm lễ khất lưu, một bên xin rước cũng không thực hiện được nữa, và cái tên "chạy Ói" cũng mất đi nửa phần ý nghĩa.
Đến nay, theo nguyện vọng của người dân, được sự cho phép của cơ quan chức năng, đảng bộ và chính quyền xã Quỳnh Lương cùng sự công đức của nhân dân trong và ngoài xã đã tiến hành phục hồi đền Quy Lĩnh. Năm 2010, đền đã được khánh thành, chính quyền và nhân dân xã Quỳnh Lương cũng tiến hành khôi phục lại lễ hội đền Quy Lĩnh trước kia với thời gian trùng khớp với lễ hội Đền Cờn. Tuy nhiên, vẫn chưa khôi phục lại tục "chạy Ói".
Tài liệu tham khảo
1. Đền Cờn từ truyền thuyết đến lịch sử và lễ hội truyền thống. Nguồn tin:Bảo tàng Lịch sử quốc gia
2. Đền Cờn Tứ vị thánh nương. http://thantienvietnam.com/dao-quan/488-den-con-tu-vi-thanh-nuong-.html
3. Giai thoại về đền Cờn ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Những bí ẩn của lịch sử việt nam. http://lichsuhuyenbivietnam.blogspot.com/2013/04/giai-thoai-ve-en-con-o-quynh-luu-nghe-an.html
4. Lễ Hội đền Cờn. http://www.vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/dat-nuoc-xu-nghe/le-hoi-den-con-va-tuc-tho-tu-vi-thanh-nuong-voi-van-hoa-bien-o-viet-nam
5. Thanh Thủy - Thu Hương. Linh thiêng đền Cờn (Baonghean.vn)
6. Tục "chạy Ói" Đền Cờn. http://www.baomoi.com/tuc-chay-oi-den-con-cai-chet-oan-nghiet-cua-vi-su-va-me-con-hoang-hau/c/8874347.epi
Cây đa 500 tuổi trước cổng đền Cờn Trong được công nhận cây di sản. |
|
Bãi tắm Quỳnh Phương buổi sáng, đứng chụp từ đền Cờn ngoài 5.11.2016
Ánh bình minh, đứng chụp từ đền Cờn ngoài 5.11.2016
Cầu Hoàng Mai trên dòng Mai giang, đứng chụp từ trước đền Cờn trong 5.11.2016