Ký sự phượt xuyên Việt - Episode 10 (Thành phố Cà Mau – Ninh Kiều Cần Thơ)

Cập nhật: 02/04/2020 Lượt xem: 2786

Phượt xuyên Việt ký          

Episode 10 - Ngày thứ mười (Thành phố Cà Mau – Ninh Kiều Cần Thơ)

Bản đồ Google tự động ghi lại hành trình trong ngày của chúng tôi.

Buổi sáng, thành phố Cà Mau cũng như bao thành phố khác, tiếng xe cộ ồn ào, người đi tấp nập. Chúng tôi xuống phố, đi bộ ra khu chợ hoa quả mà tôi mới phát hiện tối qua, khu chợ rộng hơn tôi tưởng rất nhiều, ngoài khu chợ hoa quả còn các khu khác như khu bán đồ vải và quần áo, khu bán đồ điện tử…hóa ra đây là chợ Cà Mau. Khu chợ nằm bên bờ một con lạch, nước xấp xỉ bờ kè, các con thuyền chở hàng tấp nập vào ra chuyển hàng đến chợ vào buổi sáng, tiếng máy thuyền ầm ĩ ồn ào. Cô bé Google ghi lại quãng đường đi bộ của chúng tôi là 1,5km với khoảng thời gian 26 phút.

Một góc chợ Cà Mau bên một con lạch

Thành phố Cà Mau là tỉnh lỵ của tỉnh Cà Mau. trước năm 1975 là thị xã, có tên là Quản Long, tỉnh An Xuyên. Năm 1999, thị xã Cà Mau được công nhận là đô thị loại III. Đây là quê hương của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thành phố là nơi hội tụ của cư dân người Việt, người Hoa, người Khmer, buôn bán sầm uất. Trong lòng thành phố có Công viên Tràm chim với hàng ngàn con chim đến và đi mỗi ngày. Bên cạnh công viên Tràm chim là khu tưởng niệm Hồ Chủ Tịch có khuôn viên rộng, chúng tôi đã có dịp tới đây khoảng gần 5 năm trước sau khi dự hội nghị của Bộ Y tế tổ chức để bàn về chế độ chi trả bảo hiểm y tế cho các kỹ thuật Phục hồi chức năng. Phía ngoài cổng là một quảng trường mà chúng tôi đã ngồi ăn bánh xèo buổi tối.

 

Khu tưởng niệm Hồ Chủ Tịch ở Cà Mau. Cánh rừng bên cạnh là khu chàm chim, buổi chiều tối có hàng ngàn con chim bay về đây trú ngụ.

Năm 2010 thành phố Cà Mau được công nhận là đô thị loại II. Dân số thành phố Cà Mau tại thời điểm năm 2017 là 224.414 người, diện tích là 249,29 km². Đa số dân cư là người Việt, người Hoa, người Khmer. Thành phố kết nối giao thông với sân bay Cà Mau và quốc lộ 1A (khoảng cách đường bộ vào khoảng 360 km so với thành phố Hồ Chí Minh, 180km so với Cần Thơ). Diện tích tự nhiên của thành phố Cà Mau 249,29 km², bằng 4,71% diện tích toàn tỉnh.

Cà Mau được mở mang cách đây 300 năm. Cuối thế kỷ 17, Mạc Cửu hay Mạc Kính Cửu (1655 - 1735), là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang), Cà Mau, đảo Phú Quốc, Bạc Liêu, Sóc Trăng và cả vùng Cần Thơ ngày nay. Đây là người đã có công đưa vùng đất phương nam này về với nước Việt Nam, nên cũng cần tìm hiểu về ông một chút.

Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức chép: "Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành. Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hi thứ mười chín (1680). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ (hay Trũng Kè, Lũng Cả -réam), Cần Bột (Cần Vọt - Kampôt), Hương Úc (Vũng Thơm - Kompong Som), Giá Khê (Rạch Giá), Cà Mau lập thành bảy xã thôn. Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sông, do đó mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sông).

Cũng theo sách vừa dẫn trên, do vốn có đầu óc tổ chức, Mạc Cửu chiêu tập dân xiêu tán người Hoa, Việt mở phố xá, xây thành lũy, đẩy mạnh khai hoang lập ra bảy thôn trải dài ven biển từ Kompongsom (Chân Lạp) về tận Cà Mau. Với chủ trương để cho dân khai hoang tự do, không thu tô thuế, chỉ đứng ra tổ chức mua sản phẩm để bán lại cho khách buôn. Chính điều này đã quy tụ dân cư đến Mang Khảm ngày càng đông. Ghe thuyền các nơi, kể cả nước ngoài đến mua bán tấp nập. Sự thịnh vượng khiến cho đất này gặp tai họa. Trong khoảng thời 1687 -1688, quân Xiêm vào cướp phá Mương Khảm, bắt Mạc Cửu đưa về Xiêm ở Vạn Tuế Sơn (tác giả sách Nghiên cứu Hà Tiên có ý kiến khác, xem bên dưới). Sau đó, ông trốn về Lũng Kỳ (Lũng Cả), dân xiêu tán tụ về với ông ngày một đông, nhưng do địa thế chật hẹp, khoảng năm 1700, ông trở về Phương Thành (Hà Tiên). Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau, Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác. Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển gồm Mán Khảm, Long Kỳ, Cần Bột, Hương Úc, Sài Mạt, Lình Quỳnh và Phú Quốc (đảo Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Cảng Khẩu (còn gọi là Mán Khảm, Kan Kao, Căn Khẩu, Căn Kháo, Căn Cáo).Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới là Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có). Lúc này ở Gia Định, các chúa Nguyễn đã lập xong phủ Gia Định. Người Việt và các di thần người Hoa đang định cư yên ổn. Nhận thấy muốn tồn tại phải có thế lực đủ mạnh để bảo vệ, che chở cho lãnh địa mà ông đã tốn công gây dựng. Sau khi cân nhắc, năm 1708 Mạc Cửu cùng thuộc hạ là Lý Xá, Trương Cầu đem lễ vật đến xin thần phục nhà Nguyễn.

Sách Gia Định thành thông chí chép: Mạc Cửu sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu trần trình lên kinh đô Phú Xuân khẩn cầu xin được đứng đầu trông coi đất ấy. Tháng 8 mùa thu năm thứ 18 Mậu Tý (1708), chúa Nguyễn Phúc Chu, chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ đông đúc. Tháng 4 mùa hạ năm thứ 21, Tân Mão (1711), Tổng binh trấn Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn. Tháng 5 mùa hạ năm thứ 11, Ất Mão (1735) đời chúa Nguyễn Phúc Chu Tổng binh Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu mất, thọ 80 tuổi, con trưởng dòng chánh là Mạc Tông tự là Thiên Tứ (hiệu Sĩ Lân Thị, Thụ Đức Hiên) dâng cáo tang. Theo sách Nghiên cứu Hà Tiên, thì từ năm 1680 đến khoảng năm 1700, nhất định Mạc Cửu không cư ngụ ở Hà Tiên, và ông cũng không ở Nam Vang xuyên suốt.

Tác giả Trương Minh Đạt căn cứ vào lời tựa của Hà Tiên thập vịnh, do Mạc Thiên Tứ viết năm 1737: Trấn Hà Tiên ở An Nam xưa thuộc về đất hoang vu xa xôi. Từ khi đất Tiên quân (chỉ Mạc Cửu) khai sáng đến nay hơn ba mươi năm, người dân mới được an cư, biết đo lường trồng trọt, để suy ra rằng Mạc Cửu không thể ở và mở mang xứ Hà Tiên sớm hơn năm 1700. Việc Mạc Cửu "cũng không ở Nam Vang xuyên suốt", ông Đạt giải thích: Bởi năm 1687, Phó tướng Hoàng Tiến nổi loạn giết chết chủ tướng Dương Ngạn Địch, rổi chiếm lĩnh dòng sông Tiền, phong tỏa đường đi Nam Vang và cướp bóc người Cao Miên, khiến họ căm ghét. Thêm nữa, năm 1688, tại Nam Vang xảy ra một sự kiện: "Với sự giúp đỡ của Việt Nam và một đơn vị lính đánh thuê người Hoa, Ang Non (Nặc Nộn) đã có một cố gắng nữa để chiếm ngôi vua. Mặc dù chiếm được Nam Vang, Ang Non không thể giành được thắng lợi quyết định". Do đó, ông Đạt cho biết, người Miên ở trong thành nổi giận, họ truy lùng người Hoa để tàn sát. Biến cố này quá ác liệt đến nỗi Mạc Cửu phải tìm đường thoát thân. Vì sông Cửu Long bị phong tỏa nên Mạc Cửu phải trốn chạy qua Xiêm. Ông được vua Xiêm cho ra bãi Vạn Tuế Sơn ở khoảng mười năm, đến năm 1699, Mạc Cửu mới về Lũng Kỳ, mở ra 7 xã thôn.

Không biết Mạc Cửu có bao nhiêu vợ, chỉ biết theo Gia định thành thông chí, thì ông có người vợ tên Bùi Thị Lẫm, người huyện Đồng Môn (Biên Hòa) và sinh được con trai đầu lòng tên Mạc Sĩ Lân tức Mạc Thiên Tứ. Căn cứ bia mộ của bà ở khu mộ dòng họ Mạc ở núi Bình San (Hà Tiên), do chính Mạc Thiên Tứ lập, thì bà được chúa Nguyễn cho phép mang họ Nguyễn.

Mộ Mạc Cửu trên núi Bình San

   

Hình trái: Mạc Công miếu, khi xưa thờ Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, Mạc Tử Sanh. Hiện nay là Đền thờ họ Mạc nơi chân núi Bình San. Hình Phải: Tượng đài Mạc Cửu tại thị xã Hà Tiên.

Mạc Thiên Tứ là người trọng văn học, thường mời các bạn văn sĩ tài nghệ tới đàm đạo thơ văn. Họ là những người gốc Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu hay cả từ phủ Triệu Phong, phủ Qui Nhơn hoặc phủ Gia Định cùng đến tham dự. Tứ mở Chiêu Anh Các, mua sách vở, cùng bạn văn xướng họa có thơ vịnh Hà Tiên Thập Cảnh. Từ đó văn phong mới truyền bá ra khắp miền biển này. Tứ cho khắc bản Hà Tiên Thập Vịnh & Minh Bột Di Ngư truyền lại cho đời. Đây là những áng văn tỏ tình ca ngợi và yêu thương đất nước cùng con người Hà Tiên, thật đáng trân trọng. Từ trên núi Bình San, Hà Tiên hiện ra thơ mộng đến vô cùng: một bên là biển Đông mênh mông, một bên là núi Voi Phục, điểm xuyết là những núi đá vôi cô độc càng tôn thêm vẻ đẹp riêng của xứ sở Hà Tiên mà không nơi nào có được! Đã đến Hà Tiên không thể nào không ghé thăm từ đường của dòng họ Mạc được khởi đầu từ Tổng binh Mạc Cửu. Khi ông qua đời, nhà Nguyễn đã phong tặng tước hiệu Khai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị công. Những bậc thang đá đưa chúng ta thăm nơi an nghỉ của những người đã có công khai phá xứ Hà Tiên hơn 300 năm trước. Mạc Cửu giỏi tài dụng binh, Mạc Thiên Tích giỏi văn, người có công lập ra tao đàn Chiêu Anh Các để mỗi mùa trăng tròn ngắm trăng làm thơ tại Bảo nguyệt liên trì (đối diện đền thờ Mạc Công). Dòng họ Mạc Cửu cai quản vùng đất này được 7 đời thì không còn con trai nối dõi và từ đó Nhà Nguyễn cai quản.

Tên gọi Cà Mau được hình thành do người Khmer gọi tên vùng đất này là "Tưk Kha-mau", có nghĩa là nước đen. Do Nước đen là màu nước đặc trưng do lá tràm của thảm rừng tràm U Minh bạt ngàn rụng xuống làm đổi màu nước. Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác mọc tự nhiên và hoang dã. Chính vì lẽ đó từ thuở xưa đã có câu ca dao: “Cà Mau là xứ quê mùa; Muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu”.

Bản đồ hành chính Miền Nam Việt Nam

Chúng tôi rời khỏi thành phố Cà Mau vào lúc 9 giờ sáng, đích đến của chúng tôi là bến Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Quãng đường 238km với thời gian 5giờ 32 phút đi qua Bạc Liêu, Sóc Trăng, chúng tôi nghỉ tại khách sạn West Hotel 86-88-89, đường Hai Bà Trưng, phường Tân An, Ninh Kiều, cần thơ. Đây là một khách sạn 4 sao hai mặt đường, mặt chính trên đường Hai Bà Trưng chạy dọc bờ sông Hậu. Phòng của chúng tôi ở tẩng 6 có ban công nhìn ra bến Ninh Kiều, đứng ở đây có thể nhìn thấy toàn cảnh bến Ninh Kiều và phía xa là cầu Cần Thơ nổi lên trên nền trời chiều rất huyền ảo.

Cần Thơ là thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh, nằm dưới sự quản lý của trung ương, khác với các thành phố trực thuộc tỉnh nằm dưới sự quản lý của tỉnh, chỉ tương đương cấp huyện. Cần Thơ là thành phố hiện đại và phát triển nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Cần Thơ nằm bên hữu ngạn sông Hậu. Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai phá và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, vùng đất Trấn Giang đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Vào năm Mậu Tý 1708, ông Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Vùng Cần Thơ lúc ấy vẫn chưa được tổ chức thành một đơn vị hành chính của Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất vào năm 1735, Mạc Thiên Tứ nối nghiệp cha, khai phá thêm vùng hữu ngạn sông Hậu. Năm 1739, Mạc Thiên Tứ  thành lập thêm 4 vùng đất mới ở phía hữu ngạn sông Hậu để sáp nhập vào đất Hà Tiên: Long xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bắc Bạc Liêu). Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không chiếm được Trấn Giang. Năm 1774, nghĩa quân Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, sau đó kéo xuống miền Tây và Trấn Giang. Sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút tháng 1 năm 1785, vào năm 1787, quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới quyền bảo hộ của Nhà Nguyễn. Suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một cứ điểm quan trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động. Năm 1808, dưới triều vua Gia Long, đất Trấn Giang thuộc trấn Vĩnh Thanh (trước đó từng có tên là dinh Long Hồ, dinh Hoằng Trấn, Vĩnh Trấn), một trong 5 trấn của Gia Định bấy giờ là: Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên.

Thành phố Cần Thơ nằm ở vùng hạ lưu của sông Mê Kông và ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Cần Thơ có tổng diện tích tự nhiên là 1.409,0 km², diện tích nội thành là 53 km².  Dân số vào khoảng 1.400.200 người, mật độ dân số tính đến 2015 là 995 người/km². Cần Thơ là thành phố lớn thứ năm của cả nước, cũng là thành phố hiện đại và lớn nhất của cả vùng hạ lưu sông Mê Kông. Cần Thơ là Thủ phủ và là đô thị hạt nhân của miền Tây Nam Bộ từ thời Pháp thuộc, nay tiếp tục là trung tâm kinh tế của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngoài đặc trưng về địa lý là đầu mối giao thông quan trọng giữa các tỉnh trong khu vực, thành phố Cần Thơ còn được biết đến như một đô thị miền sông nước. Thành phố có hệ thống sông ngòi chằng chịt, diện tích vườn cây ăn trái và đồng ruộng rộng lớn, nổi tiếng với Bến Ninh Kiều, Chợ nổi Cái Răng một nét sinh hoạt đặc trưng văn hóa Nam Bộ. Thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập. Thành phố Cần Thơ có 3 dạng địa hình chính là Địa hình ven sông Hậu hình thành dải đất cao là đê tự nhiên và các cù lao ven sông Hậu. Thành phố Cần Thơ có Sông Hậu chảy qua với tổng chiều dài là 65 km, trong đó đoạn qua Cần Thơ có chiều rộng khoảng 1,6 km.

Bản đồ thành phố Cần Thơ

Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, đi qua các quận Ô Môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Bên cạnh đó, thành phố Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch dày đặc, với hơn 158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là Sông Hậu và sông Câng Thơ đi qua thành phố nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là sông Bình Thủy, sông Trà Nóc, sông Ô Môn, sông Thốt Nốt, kênh Thơm Rơm và nhiều kênh lớn khác tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền.

Về nguồn gốc chữ "Cần Thơ", có 2 giả thuyết. Thuyết thứ nhất kể rằng khi chúa Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu, thuyền ngài lênh đênh trên sông Hậu, trong đêm khuya thanh vắng ngài nghe có tiếng ngâm thơ, đờn địch, hò hát hòa nhau rất nhịp nhàng, từ một khúc sông xa vọng lại. Ngài xúc động và đặt tên con sông nhỏ này là "Cầm Thi Giang". Cầm Thi được đọc trại thành Cần Thơ. Một truyền thuyết khác nói là khi xưa vùng Cần Thơ có trồng nhiều rau cần và rau thơm. Mỗi khi chèo ghe đi bán trên sông rạch, chủ ghe thường rao: "Ai mua rau cần thơm không". Rau cần thơm vì vậy đã vào ca dao, và cần thơm đọc trại thành Cần Thơ: “Rau cần rau thơm xanh mướt / Mua mau kẻo hết, chậm bước không còn / Rau cần lại với rau thơm / Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều”.

Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, triều đình Nhà Nguyễn cắt 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ cho Pháp vào năm 1876. Thiết lập ách thống trị trên vùng đất này, Pháp chính thức hóa tên gọi Cần Thơ bằng những văn bản hành chính. Để dễ bề kiểm soát hoạt động của nhân dân từng tỉnh trong 3 tỉnh vừa chiếm được, Pháp còn đánh số, tỉnh Cần Thơ mang con số 19. Từ đó trở đi, các phương tiện giao thông, chủ yếu giao thông thủy như thuyền, ghe của Cần Thơ đều phải gắn con số 19 trước mui. Ngay cả lính mã tà mỗi lần có việc di chuyển từ Cần Thơ sang tỉnh khác hoặc giải phạm nhân chống đối lên Sài Gòn đều gắn con số 19 vào cổ áo để dễ nhận diện lính của mỗi tỉnh thuộc đất nhượng địa.

Năm 1956, Sắc lệnh 143-NV được Ngô Đình Diệm ban hành để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Trong đó, chính quyền đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh, tuy nhiên vẫn giữ lại tên gọi tỉnh lỵ là "Cần Thơ" như cũ. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa danh "Cần Thơ" chỉ còn được dùng để chỉ khu vực đô thị tỉnh lỵ của tỉnh Phong Dinh, tuy nhiên đến năm 1970 khu vực này và vùng phụ cận được nâng cấp trở thành thị xã Cần Thơ.

Bến Ninh Kiều nằm giữa ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ thuộc quận Ninh Kiều, gần trung tâm thành phố Cần Thơ, là một bến sông gần chợ Cần Thơ dọc theo con đường Hai Bà Trưng, trực thuộc phường Tân An. Bến Ninh Kiều xưa vốn là một bến sông ở đầu chợ Cần Thơ. Năm 1876, quân Pháp chiếm đóng Cần Thơ, bến sông được xây gạch, đá dọc theo bờ để ngăn sóng và trở thành bến tàu giao thương hàng hóa đông đúc, tấp nập. Bến sông được người Pháp đặt tên là Quai de Commerce có nghĩa là bến Thương Mại, còn người dân thì gọi với cái tên bình dị là bến Hàng Dương vì dọc bờ sông có trồng nhiều cây dương. Năm 1957, Tỉnh trưởng Cần Thơ lúc này là Đỗ Văn Chước đã tạo dựng tại đây một bến dạo mát và công viên cây cảnh. Sau đó, Đỗ Văn Chước trình lên Ngô Đình Diệm (tổng thống của Việt Nam cộng hòa) xin đặt tên công viên và bến dạo mát là Ninh Kiều theo tên địa danh lịch sử Ninh Kiều, nơi ghi dấu chiến thắng quân Minh của anh hùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn. Việc chọn tên Ninh Kiều để đặt cho một bến và công viên mới thành lập dọc theo đường Lê Lợi thật sự có ý nghĩa cũng như thể hiện sự trân trọng với chiến tích to lớn của người anh hùng đất Lam Sơn.

Ngày nay, bến Ninh Kiều được đầu tư thành công viên du lịch có diện tích 7.000 m². Đứng ở bến Ninh Kiều, có thể nhìn thấy cầu Cần Thơ – cây cầu dây văng có nhịp chính dài nhất Đông Nam Á vào thời điểm hoàn thành (4/2010). Trong công viên có bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đồng cao 7,2 m, đặt trên bệ cao 3,6 m, trọng lượng hơn 12 tấn.

Bến Ninh Kiều Cần Thơ

Đến Cần Thơ còn sớm, khoảng 3 giờ chiều, chúng tôi thay đồ xuống bến Ninh Kiều mua vé thuê thuyền đi thăm chợ nổi cái răng vào sáng hôm sau. Chợ nổi Cái Răng là chợ nổi duy nhất tại cần thơ, tọa lạc tại trục đường thủy mang tính chiến lược của hệ thống sông Cần Thơ, kênh Xáng Xà No - Sông Hậu, nằm trong lòng thành phố Cần Thơ với nguồn khách dồi dào đã tạo điều kiện cho chợ nổi Cái Răng duy trì và phát triển. Nông sản ở chợ nổi Cái Răng có rất nhiều, nhưng cơ bản vẫn là trái cây: mít, khóm, dưa hấu, bưởi, chanh, mận... các thương lái ở đây thường bán buôn, tiếng nam bộ gọi là bán sỉ, cho các vựa trái cây trên bờ hoặc khách du lịch mua với số lượng nhiều. Có thể nói, chợ nổi Cái Răng luôn cuốn hút khách du lịch khi đến Cần Thơ. Để biết thuyền bán cái gì, chủ thuyền buộc đồ lên một cái sào dựng trên thuyền. Ngoài các thuyền lớn bán trái cây, còn có các ghe nhỏ của các bà, các chị mặc đồ bà ba, chân đạp mái chèo len lỏi đi bán đồ ăn, đồ giải khát cho du khách. Chợ thường họp rất sớm khoảng 3 - 4 giờ sáng và chợ tan vào khoảng 9 giờ sáng, vì vậy muốn thăm chợ phải chịu khó dậy sớm.

Chợ nổi Cái Răng.

Tối nay chúng tôi tản bộ ở dọc công viên Ninh Kiều, sau khi mua vé thuê thuyền để sáng hôm sau đi chơi chợ nổi thì chúng tôi đi bộ dọc bến Ninh Kiều ngắm những du thuyền rực rỡ đèn màu đang bồng bềnh trên sông.

- Lại đằng kia đi, phía trước có cái gì mà đèn trang trí lung linh thế.

Đó là một chiếc cầu vươn ra sông được trang trí đèn lung linh, có hai bông hoa sen lớn ở giữa cầu, rất đông khách đi dạo trên cầu. Chúng tôi đi tới gần bến thuyền du lịch ngay trước khách sạn Ninh Kiều, khách sạn sang trong bậc nhất Cần Thơ, là cây cầu đi bộ, chắc mới được xây dựng, trước đây đến Cần Thơ chúng tôi chưa thấy cây cầu này.

Cầu đi bộ du lịch đầu tiên của thành phố Cần Thơ nối liền bến Ninh Kiều và cồn Cái Khế được khánh thành và đưa vào sử dụng đúng dịp Tết nguyên đán năm 2016.  Ước tính, mỗi ngày có hơn 5.000 lượt khách đến tham quan thưởng ngoạn, thả bộ qua cầu, chụp ảnh lưu niệm trong dàn ánh sáng lung linh cũng như tận hưởng làn gió mát rượi từ sông Hậu thổi vào. Đây là cầu đi bộ đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng hiện đại bằng bê tông cốt thép bán vĩnh cửu với kinh phí 49,6 tỉ đồng. Cầu dài 199 mét, rộng 7,2 mét, uốn lượn hình chữ S mềm mại tượng trưng cho đất nước Việt Nam. Thân cầu có hai phần mở rộng được xây hai đài hoa sen và chỗ nghỉ chân có mái che với hệ thống chiếu sáng theo kịch bản bằng đèn màu led sử dụng nguồn năng lượng mặt trời.

  

Khách sạn Cần Thơ (hình trái) và cầu đi bộ du lịch Cần Thơ (hình phải)

Cầu đi bộ du lịch Cần Thơ.

Xung quanh hai bên lan can cây cầu đi bộ được trồng rất nhiều loài hoa bốn mùa tạo nên vẻ lãng mạn, quyến rũ thu hút rất nhiều bạn trẻ và cặp đôi tới đây để chụp ảnh cưới, vì vậy cầu đi bộ Cần Thơ còn được gọi là “cầu tình yêu”. Nhiều cặp đôi còn gắn những ổ khóa tình yêu lên cầu để làm kỷ niệm, tuy nhiên do kết cấu tải trọng không cho phép nên tất cả ổ khóa đã được gỡ bỏ.

Cây cầu về đêm long lanh sắc màu, gần tới tết nguyên đán nên trên mặt sông cũng được trang trí hình rồng và hoa bằng các đèn màu lung linh rất đẹp. Ở giữa cây cầu, dưới chân các đóa sen khổng lồ các nghệ sĩ đang biểu diễn đàn ca tài tử đã thu hút được rất nhiều khách dừng lại thưởng thức. Chúng tôi chọn một quán caffe bên bờ sông giữa cầu đi bộ và bến du thuyền, ngồi đây nhâm nhi caffe hóng gió thổi vào từ sông Hậu, ngắm nhìn ánh đèn đủ màu sắc lung linh từ các du thuyền, khách sạn, cầu đi bộ và các dàn hoa trang trí trên sông chuẩn bị đón tết nguyên đán thật là thú vị. Chúng tôi lưu lại địa điểm này cho tới 9 giờ tối thì trở về khách sạn để nghỉ ngơi.

Mời các bạn xem tiếp Episode 11:

https://hahoangkiem.com/van-hoc/ky-su-phuot-xuyen-viet-episode-11-ninh-kieu-can-tho-da-lat-lam-dong-3847.html


CHIA SẺ BÀI VIẾT

Bài cùng chủ đề

Bài về chủ bút

    Tinh hoa nhân loại

      Khoa học

        Văn học

          SÁCH CỦA TÔI